Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2012

Những mẫu câu chuyện về tấm gương đạo đức của Hồ Chủ Tịch

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng
CÂU CHUYỆN NHỎ VÀ BÀI HỌC LỚN
Vào một buổi sáng của năm 196... nào đó, Bác Hồ đi từ ngôi nhà sàn của Người sang Phủ Thủ tướng tìm đồng chí Phạm Văn Đồng để trao đổi về một vấn đề quan trọng...
Trong một bài hồi tưởng về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Việt Phương kể lại một câu chuyện sau đây: Vào một buổi sáng của năm 196... nào đó, Bác Hồ đi từ ngôi nhà sàn của Người sang Phủ Thủ tướng tìm đồng chí Phạm Văn Đồng để trao đổi về một vấn đề quan trọng. Lúc đó, đồng chí Phạm Văn Đồng đang làm việc tại Văn phòng, tuy cũng nằm trong khu Phủ Chủ tịch nhưng cách xa Phủ Thủ tướng tới vài trăm mét. Một đồng chí bảo vệ vội vã đạp xe ra báo với Thủ tướng. Vội quá, Thủ tướng dùng ngay chiếc xe đạp của đồng chí bảo vệ phóng về gặp Bác. Đồng chí bảo vệ không thể để Thủ tướng rời xa mình, mà lại không có thời gian tìm chiếc xe đạp khác, nên anh đành lập tức chạy bộ theo sau Thủ tướng. Bác Hồ đứng sẵn ở sân chờ đồng chí Phạm Văn Đồng. Khi Thủ tướng vừa xuống xe, chưa kịp chào hỏi gì, Bác đã nói ngay:
- Sao chú không đèo chú bảo vệ đằng sau xe để cùng về, lại để chú ấy chạy bộ?
Thủ tướng Phạm Văn Đồng lúc đó như chợt nhận ra, vội đáp:
- Xin lỗi Bác.
Đáp vậy, nhưng sau đó đồng chí Phạm Văn Đồng đã suy nghĩ rất kỹ về lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà nghiêm khắc của Bác Hồ. Sáng hôm sau, trong lúc làm việc với một số đồng chí cấp dưới, ông kể lại câu chuyện trên cho mọi người cùng nghe, rồi nói:
- Tôi đã nghĩ về lời của Bác. Lòng nhân ái, thương yêu và kính trọng con người, phải chân thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên bật ra thành thái độ và hành động, chẳng phải suy nghĩ gì, như là từ bản năng.
Câu chuyện trên đây gợi cho chúng ta một số bài học lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Thứ nhất, ngay cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất cũng luôn luôn cần trau dồi đạo đức, bồi bổ nhân cách và rèn luyện phong cách ứng xử sao cho thực sự nhân ái, xứng tầm. Ai cũng biết Thủ tướng Phạm Văn đồng là một trong những nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta. Ông không những được nhân dân ta rất kính trọng, yêu mến mà còn được cộng đồng thế giới thừa nhận như một nhà lãnh đạo thông tuệ, hào hoa, lịch thiệp, giỏi giang bậc nhất. Thế mà, tuy ông đã làm tới chức Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngần ngại nhắc nhở, phê bình để giúp đồng chí Phạm Văn Đồng ứng xử cho đúng, tu tâm, dưỡng tính cho thuần hậu, nhân ái, sao cho trở thành “bản năng” của nhà lãnh đạo.
Ở đây ta thấy nét rất đẹp của Bác Hồ trong vai trò của người Thầy, và Thủ tướng Phạm Văn Đồng với tư cách người học trò. Thầy không ngần ngại chỉnh sửa, chỉ bảo học trò theo một cách vừa nhân hậu, nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ nghiêm khắc để trò nhận thức được điều Thầy cần chỉ bảo. Về phía mình, học trò là người thực sự cầu thị, thành thực, nghiêm túc tiếp thu sự chỉ bảo của Thầy, suy ngẫm kỹ càng, không hời hợt qua loa mà ghi tâm, khắc cốt, qua đó mà hoàn thiện nhân cách của mình.
Ngày xửa, ngày xưa, Đức Phật Tổ và Đức Khổng Tử cũng dùng phương pháp này để rèn dạy, trao truyền tâm ấn cho học trò. Ngày nay thiết tưởng vẫn cần, rất cần những sự chỉ dẫn - học hỏi như vậy, nhất là đối với các bậc, các cấp lãnh đạo, nếu như họ không muốn trở thành những người “vác mặt quan cách mạng” - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo.
Thứ hai, là bài học về lòng nhân ái. Bài học này Thủ tướng Phạm Văn Đồng suy ngẫm và rút ra từ câu chuyện nói trên. Theo Thủ tướng thì lòng nhân ái, thương yêu và kính trọng con người không phải là cái gì có thể nguỵ tạo theo kiểu “giả nhân giả nghĩa” để mị dân, mà phải chân thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên bật ra thành thái độ và hành động, chẳng phải suy nghĩ gì, như là từ bản năng. Đây là một nhận thức rất sâu sắc về đạo đức cách mạng. Lòng nhân ái phải thực sự trở thành cái cốt lõi, thành điểm tựa cho nhân cách của một nhà lãnh đạo chân chính. Chỉ khi đó tình thương yêu và kính trọng con người mới phát từ trong tâm mà ra, hoà quyện vào trong ứng xử hàng ngày của nhà lãnh đạo một cách hết sức tự nhiên, như một bản năng vậy. Như vậy thì lòng nhân ái không thể là cái gì có thể “chế tác”, ngụy tạo một cách giản đơn và chỉ có lòng nhân ái chân thực mới tạo nên uy tín, tạo nên sức thu hút quần chúng và nâng cao tầm của nhà lãnh đạo. Ngược lại, nhà lãnh đạo phải đạt tới tầm nào đó rồi mới hiểu thấu đáo được cội rễ của lòng nhân ái, mới biết yêu thương và kính trọng con người như một bản năng.
Thứ ba, là bài học về mối quan hệ giữa lãnh tụ với nhân dân. Đây chính là điều mà Bác Hồ đã quán triệt cho các học trò của Người ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp Dựng Đảng - Cứu Quốc, rằng “công nông là gốc kách mệnh”. Đặc biệt là từ sau khi Đảng ta trở thành một “đảng cầm quyền” thì Người càng đặc biệt chú trọng đến việc giáo dục cho cán bộ, đảng viên, trí thức ý thức gần dân, thực sự thương yêu và kính trọng nhân dân. Ngay trong tháng đầu tiên của chính quyền cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận thấy cán bộ các cấp phạm vào một loạt các sai phạm như: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Vì vậy, ngày 17 tháng 10 năm 1945 Người đã viết Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, huyện và làng yêu cầu cán bộ ta khẩn trương, nghiêm túc rút kinh nghiệm, gột rửa những sai phạm nói trên. Hai năm sau, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang trải qua giai đoạn rất khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian biên soạn cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” để nghiêm khắc vạch ra những sai phạm trong đạo đức và phong cách lãnh đạo, làm việc của cán bộ các cấp, đồng thời chỉ ra những phương hướng và biện pháp cụ thể để khắc phục. Người cho rằng đạo đức của một người cán bộ, đảng viên phải gồm đủ cả Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; rằng “sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, nhưng “tuyệt đối không theo đuôi quần chúng”.
Có thể nói tác phẩm trên đây là những chỉ dẫn sâu sắc và mẫu mực của Hồ Chí Minh về đạo đức và phong cách lãnh đạo, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Việt Đức

[Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 178, tháng 12/2005]


NHỮNG LỜI BÁC DẠY ĐẦU TIÊN


Mùa thu năm 1946, tôi và ba đồng chí nữa được vinh dự theo Bác về nước trên chiếc tàu Đuymông Đuếvin. Tàu này là một chiếc tàu chiến đã cũ, chạy lừ đừ chậm chạp. Lúc bấy giờ, tình hình ở trong nước đang căng thẳng ai nấy đều sốt ruột mong về sớm, nhưng giờ đây nghĩ lại, đối với chúng tôi, đó là một dịp may hiếm có để được kéo dài những ngày chung sống với Bác.
Trên chuyến xe lửa từ Pari đi Macxây, Bác nói:
- Nước ta còn nghèo vì 80 năm bị đế quốc bóc lột, chiếm đóng. Đồng bào Nam bộ giờ đây còn đổ máu. Chúng ta còn gian khổ chiến đấu nhiều chứ chưa được sung sướng ngay đâu. Các chú về nước chính là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ đồng bào...
Lên tàu rồi, một hôm Bác dặn:
- Ở nhà không có gì đâu. Nước ta thiếu máy móc, nguyên liệu, thiếu cả thợ lành nghề, tiền của ta lại ít. Song nước ta giàu về rừng núi, sông biển, đồng bào ta giàu về quyết tâm, dũng cảm và sáng tạo. Các chú về phải chịu thương, chịu khó làm ăn, đưa những cái đã học ở nước ngoài về áp dụng thiết thực vào trong nước, giúp đỡ và hướng dẫn anh em trong nước cùng làm.
Tôi còn nhớ lúc đi tàu, thỉnh thoảng có những hôm tên đại tá chỉ huy tàu tổ chức tập trận trên giữa biển cả mênh mông, tiếng súng đại bác, súng máy các loại thi nhau gầm thét, khói mịt mù, nước biển tung toé ngoài khơi. Trong chúng tôi, thoạt tiên cũng có người hồi hộp, nhưng riêng Bác vẫn điềm nhiên, ung dung hút thuốc lá, đứng xem. Bác mỉm cười bảo chúng tôi:
- Đấy, người ta thử kiểm tra tinh thần của các chú. Các chú có sợ không?
Nhân đó, Bác chỉ cho chúng tôi thấy bọn đế quốc thường hay phô trương, khoe khoang về sức mạnh vật chất, còn nhân dân cách mạng tuy nghèo nhưng hàng triệu người đoàn kết thành một khối, có tinh thần dũng cảm và mưu trí, nhất định đánh bại được bọn chúng...
Tại Đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, tôi được Bác khen...
Vinh dự đó thuộc về anh em ngành quân giới trong đó tôi nhờ sự chỉ bảo, dẫn dắt của Bác đã đóng góp một phần.
Những lời dạy của Bác như bức cẩm nang quyết định mọi thắng lợi trong công tác của tôi.


Theo thiếu tướng Trần Đại Nghĩa


(Hậu Giang, số 395 ngày 30/3/2007)


NỒNG NÀN TÌNH YÊU DÂN, YÊU TỔ QUỐC

Cuối nǎm 1940, Bác về nước. Bác đến hang Pắc Bó ở Cao Bằng ngày 8 tháng 2 nǎm 1941. Trên đường về, Bác biết tin có 40 thanh niên, có người là Đảng viên, là cảm tình của Đảng, ức bọn Nhật Pháp đã tổ chức nhau sang Trung Quốc mua sắm vũ khí đánh Nhật, Pháp, nhưng đến nơi bị Nguyễn Hải Thần phát hiện. Bác đã liên lạc gặp được 40 thanh niên này và giác ngộ họ. Bác nói:
- Ở đây bây giờ không phải là đất hoạt động của chúng ta, đất hoạt động của chúng ta là ở đất nước mình. Bây giờ chúng ta phải gấp rút về nước. Thế là Bác đưa 40 thanh niên này về gần biên giới.
Trong số ấy có các đồng chí Hoàng Sâm, Đàm Quang Trung, v.v...
Bác giao cho các đồng chí Võ Nguyên Giáp và Cao Hồng Lĩnh huấn luyện các anh em ấy, đợi ngày về nước. Bác đi đến đâu là Bác tiếp tục đào tạo cán bộ cách mạng, gây cơ sở đến đấy.
Ở Pắc Bó, Bác lấy tên là Ké Thu. Hội nghị Trung ương Đảng do Bác triệu tập đã họp ở đây. Nghị quyết của Hội nghị này quyết định thành lập mặt trận Việt Minh. Bác làm việc rất có kế hoạch, phân chia thời gian hàng ngày cụ thể, giờ nào làm việc ấy. Bác gương mẫu hàng ngày báo cáo kế hoạch làm việc của mình để mọi người noi theo. Kế hoạch của Bác là sáng dậy tập thể dục, tập quyền, rồi leo núi và làm vệ sinh, sau đó đi tắm. Dù trời rét Bác cũng tắm. Tắm xong uống nước chè (đó là nước nấu bằng lá ngải cứu đã sao vàng). Sau đó dịch lịch sử Đảng, viết báo. Trưa ǎn cơm, rồi đi nghe đài, đọc báo, nghe báo cáo của các địa phương. Buổi chiều tiếp tục làm công việc buổi sáng còn lại sau đó ǎn cơm. Trước khi ǎn cơm, Bác nghe đài, đi lấy củi, tắm và tối thì lên lớp giảng bài. Bác không bao giờ chịu sai chương trình, nếu gặp việc đột xuất thì kiếm thì giờ khác bù vào không chịu lỡ kế hoạch.Ở với Bác hàng ngày, cứ xem Bác làm gì, thì biết là mấy giờ rồi, không cần phải dùng đồng hồ, vì giờ nào việc ấy là tác phong của Bác.
Có một buổi tối lên lớp, nhiều đồng chí tò mò, nghe Bác nói cứ đoán đây là đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho nên nói dễ hiểu, dễ nghe, dễ nhớ mặc dù chưa ai gặp bao giờ và cũng chẳng được xem ảnh. Có đồng chí không biết hút thuốc, nhưng cứ bật diêm lên xem mặt. Lần đầu, Bác quay mặt đi. Lần thứ hai, Bác lại quay mặt đi. Lần thứ ba, Bác biết đấy là các đồng chí tò mò. Bác nói:Việc gì Đảng cho biết thì phải tìm hiểu thật sâu, nắm thật chắc, làm thật tốt. Việc gì Đảng và đoàn thể không cho biết thì không nên tò mò. Tò mò chỉ có hại thôi.
Sau khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Bác là người đi làm thí điểm việc xây dựng cơ sở Mặt trận ở vùng này, để lấy kinh nghiệm phổ biến cho toàn quốc.
Bác bảo đồng chí Dương Đại Lâm:
Chú về nói với ông cụ là có ông Ké Thu ở bản Nà Kéo sang chơi. Ông này kể "Tam quốc chí" rất hay. Nói với bố như thế, ông thích nghe Tam quốc chí, chuẩn bị chè nước, Ké Thu sẽ đến.
Tối hôm đó, Bác đến nhà đồng chí Dương Đại Lâm. Mấy ông cụ ở trong bản cũng đến. Bác kể chuyện Tam quốc chí, rồi đến Chinh Đông, Chinh Tây, Thủy Hử... Các cụ kéo đến nghe kể chuyện ngày càng đông. Lúc đó Bác mới nói đến chuyện bây giờ phải làm cách mạng.
Các cụ nói:
- Làm cách mạng thì được thôi. Nhưng phải giết bọn cai tổng đi mới làm cách mạng được tốt. Nếu không bọn chúng báo cho Tây, không làm cách mạng được đâu.
Bác thân mật giải thích để các cụ hiểu nếu làm như thế là không đúng với đường lối mặt trận Việt Minh, đó là không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt đảng phái, không phân biệt nam nữ, v.v... Ai yêu nước, chống đế quốc thì vào mặt trận đó.
Bác nói:
- Cái đinh đóng được vào gỗ là nhờ cái búa. Bây giờ ta vứt cái búa đi. Thì cái đinh không thể nào đóng được vào gỗ. Ta đuổi là đuổi thằng đế quốc đi. Còn cai tổng, lý trưởng nó đều là người mình cả, giác ngộ nó rồi nó cũng đi theo mình thôi.
Các cụ nghe ra sôi nổi bảo:
- Như vậy phải lắm. Thế làm được thôi.
Bác tổ chức được tổ phụ lão cứu quốc đầu tiên ở bản Pắc Bó và rút kinh nghiệm phổ biến ra toàn quốc.
Mặc dù Bác hàng ngày bận trǎm công ngàn việc, nhưng Bác vẫn dành thời gian dạy học vǎn hóa cho các đồng chí Nông Thị Trưng, Thế An, Đức Thành và các đồng chí khác. Bác lại thường xuyên làm tuyên truyền về Đảng, quần chúng tiếp thu như thế nào Bác lại báo cáo với chi bộ. Khi quần chúng đã giác ngộ, Bác tổng kết lại đưa ra chi bộ thông qua và chịu trách nhiệm về quần chúng mà Bác đã tuyên truyền giáo dục. Đấy là ý thức tổ chức của Bác trong việc giáo dục tuyên truyền quần chúng.
Tháng 5-1942, Bác đi họp tỉnh ủy Cao Bằng, Bác đóng vai ông thầy mo kiêm thầy thuốc nhưng mà điếc. Đồng chí Thế Anh đóng vai đón ông thầy mo về chữa cho vợ bị ốm. Lúc này đồng chí Thế Anh mới chỉ biết Bác là ông Ké Thu. Bác nhờ tỉnh ủy Cao Bằng chuẩn bị cho Bác một cuốn sách cúng, một cái thanh la, một con gà và mấy bao gạo nếp. Đồng chí Thế Anh đeo cái bao gạo nếp. Bác đội nón Nùng, lấy khǎn che râu, mặc một bộ quần áo Nùng, tay chống gậy.
Đến ngã ba Đôn Chương thì gặp bọn tổng đoàn và bọn lính gác. Bọn chúng hỏi:
- Đi đâu?
Đồng chí Thế Anh đáp:
Đi đón ông Ké về chữa cho vợ đang bị bệnh phong.
- Tốt lắm. Về chữa cho vợ tao đang ốm nặng.
Như thế thì gay go rồi. Đồng chí Thế Anh nói đi nói lại với tụi nó:
Ông Ké này cũng xoàng thôi. Chỉ biết cúng có bệnh phong thôi, lại điếc nữa mà.
Nói mãi, chúng nó cũng nhượng bộ và nói rằng:
- Mày đi xong, chiều về nhớ cúng cho vợ tao.
Ông Ké quay lại cười. Đồng chí Thế Anh bực quá, đi một quãng xa, rồi quay lại phê bình ông Ké:
- Đã bảo là điếc rồi, mà ông Ké còn quay lại cười với nó.
Làm vậy nó bắt thì làm sao?
- Nếu không cười thì nó bắt rồi. Điếc thì nó nói không nghe. Nhưng mình còn hệ thần kinh. Ông Ké giải thích mình còn đi lại được, nó vỗ vào người phải biết. Chứ nó vỗ vào mà không đứng lên nó cho là điếc giả vờ, nó bắt rồi.
Đi một quãng, đồng chí Thế Anh lại ngạc nhiên khi nhìn hàm rǎng ông Ké trắng là thế, sao hôm nay lại bẩn vậy. Bác cười và nói:
Chục, chục, cheng cheng, xôi đầy, gà béo đưa cho thầy, thầy ǎn. Ǎn chưa hết nó còn dính như thế!
Bác đã lấy nhựa sung phơi khô tai tái rồi dí vào rǎng sau đó lấy xôi nhét vào. Lúc Bác cười, hạt xôi cứ rơi lả tả. Việc làm này của Bác càng làm cho chúng ta thấy rõ Bác đã chuẩn bị cải trang và giữ bí mật rất chu đáo.
Đi họp xong về đến bản Nà Mạ, đồng chí Thế Anh báo cáo với ông Ké:
- Bây giờ tối rồi không về nữa. Mời ông Ké lên núi nằm, bản này có nhiều cơ sở tốt lắm.
Ông Ké động viên Thế Anh đi. Nhưng đồng chí vẫn cứ bước đi thoǎn thoắt lên núi, Bác phải đi theo. Lên đến nơi, đồng chí dặn ông Ké đừng có đi đâu mà bị lạc khó tìm.
Đồng chí xuống bản gặp đồng chí Đức Thành, và các đồng chí khác.
Đồng chí Thế Anh thật thà nói:
Bây giờ ông Ké, tôi để ở trên hang, ông Ké thượng cấp ấy mà. Tối nay ông sẽ ngủ ở đây.
Ông chủ nhà nghe nói thấy có "ông Ké thượng cấp" về nghỉ, ông chuẩn bị một con vịt, hai chai rượu, làm ba mâm.
Mâm giữa thịt to hơn, đĩa đầy hơn, nạc hơn. Làm cơm xong, Thế Anh đi đón ông Ké xuống đưa ông Ké vào mâm giữa.
Ông Ké nhìn đồng chí Ba bảo vệ rồi hỏi:
Chú Ba soạn bữa cơm này phải không?
Đồng chí Ba lúng túng trả lời
- Thưa không.
Đồng chí Đức Thành trả lời:
- Thưa ông Ké đây là tấm lòng tốt của chủ nhà đấy ạ.
Mọi người mời ông Ké vào mâm giữa. Ông Ké không ngồi, ông Ké nói: - Tại sao lại thế này?
Đồng chí Đức Thành đáp:
- Thưa ông Ké, đây là phong tục tập quán ở địa phương.
Bác bảo:
Đây là tục chứ không phải là phong. Thôi đã trót làm thì chia đều ra cùng ǎn.
Lúc đó phong trào cách mạng ngày một lên cao, bọn mật thám cũng tǎng cường hoạt động và ngày càng có nhiều hành động gian ác. Đồng chí Ba bảo vệ cho Bác lệnh cho Đức Thành giết một tên phản động lợi hại, ở bản Nà Kéo.
Bác biết chuyện, Bác gọi đồng chí Ba lên:
Chú bảo Đức Thành giết tên phản động ở bản Nà Kéo phải không?
Đồng chí Ba lúng túng, chưa dám nói thật, sợ ông Ké phê bình:
- Thưa ông Ké không ạ?
- Không à?
Bác đưa cho đồng chí Ba cuốn lịch sử Đảng Bônsêvích mà Lênin viết: đoạn nói về việc chống ám sát cá nhân. Bác bảo đồng chí Ba đọc đi rồi cho ý kiến.
Đồng chí Ba đọc từ sáng đến tối. Bác hỏi:
- Có thấy gì không?
- Thưa ông Ké không thấy gì ạ.
- Thôi thế tối nay suy nghĩ, sáng mai trả lời. Chú đã suy nghĩ chưa?
- Dạ, suy nghĩ rồi ạ. Thưa ông Ké không thấy gì cả.
Bác bảo tiếp tục đọc và trả lời. Đến trưa Bác lại hỏi.
Đồng chí Ba lại thưa với Bác là không thấy gì. Lúc đó Bác mới nói:
- Nói dối cấp trên tức là nói dối Đảng. Nếu ai cũng như chú làm thế nào Trung ương nắm tình hình cho đúng, để ra đường lối, chủ trương cho sát được.
Nhìn đồng chí Ba ngồi, mặt hơi cúi xuống có vẻ hối hận.
Bác nói tiếp:
Cái cây có bao nhiêu cành chúng ta đã biết. Bây giờ chúng ta chặt cành đi, thì mầm nó lại mọc lên. Cái cây không chết đâu mà là mọc nhiều mầm lên nữa. Muốn cây chết phải đào tận gốc nhổ nó đi. Giết một vài thằng không thể thay đổi chế độ của nó, mà phải lật cả chế độ của nó đi. Qua lời giảng dạy có lý, có tình, giản dị mà rất sâu sắc của Bác như vậy, đồng chí Ba đã nhận ra khuyết điểm của mình, và tự phê phán rồi hứa quyết tâm sửa chữa.
Bác bảo:
- Quyết tâm như thế là tốt. Nhưng sợ Đức Thành không nhận ra như chú, rồi lúc vô địa phương chỉ đạo phong trào, Đức Thành lại muốn làm gì thì làm, chú không biết, làm thế nào chú lãnh đạo được đồng bào một cách sít sao?
Thế là đồng chí Ba lại bảo đồng chí Đức Thành lên để Bác phân tích cho. Các đồng chí đều hối hận về lỗi lầm của mình đã mắc phải và hứa sửa chữa lỗi.
Bác lại cǎn dặn các đồng chí rất tỉ mỉ là hiện nay đồng bào đang mắc bệnh đậu mùa, đi tuyên truyền cho đồng bào làm cách mạng nhưng nhớ tuyên truyền đồng bào giữ vệ sinh, đừng có giặt quần áo của người bệnh ở nguồn nước. Người nào mắc bệnh phải cách ly ra. Người nào mắc bệnh nặng quá thì phải lấy lá rải xuống để người bệnh nằm cho êm, quần áo phải lấy lá đắng đun lên. Lấy nước mà luộc quần áo, chứ đừng có đem giặt. Bác trông nom từng ly, từng tí đến đời sống của quần chúng. Bác lại dạy cán bộ là làm cán bộ phải biết địa lý Tổ quốc mình, biết cả địa lý thế giới, trước hết phải biết thủ đô các nước. Có đồng chí không thông, Bác lại kiên trì giải thích:
Làm cách mạng phải biết Thủ đô các nước, vì Thủ đô là nơi trung tâm vǎn hóa, chính trị, kinh tế, v.v... Trong cuộc chiến tranh hiện nay, phát xít Đức đang chuẩn bị tiến công vào Thủ đô Mạc Tư Khoa. Nếu nó chuẩn bị tiến công mạnh thì lực lượng chủ yếu của Liên Xô sẽ rút ra đánh du kích. Liên Xô sẽ dùng trong đánh ra, ngoài đánh vào, lại giải phóng Thủ đô. Nhưng mà đối với phát xít Đức, khi Liên Xô đã tấn công, thì nhất định Liên Xô sẽ tấn công vào tận sào huyệt của bọn chúng, tấn công vào tận Thủ đô của bọn phát xít Đức Khi phản công như thế, ta phải gấp rút Tổng khởi nghĩa cho kịp thời. Bọn đế quốc mất Thủ đô là coi như mất cả nước của nó. Thí dụ Đức đánh qua Bỉ, vào Thủ đô Paris là Pháp đầu hàng: Ta phải nắm lấy thời cơ đó mà Tổng khởi nghĩa cho kịp thời.
Bác soạn ra cuốn Việt Nam địa lý diễn ca và Việt Nam lịch sử diễn ca. Bác bảo cán bộ phải biết địa lý, biết lịch sử để giải thích cho đồng bào dễ nhớ. Bác cũng viết một cuốn lịch sử bằng thơ lục bát từ đời Hồng Bàng đến thời Pháp thuộc.
Và cuốn địa lý Việt Nam:

Nước ta hình chữ S
Một bán đảo rất xinh
Trên bờ bể Thái Bình
Tại Đông Nam châu á
Tính bình phương cây số
có 30 vạn hơn (1)
Ngót 20 triệu dân
Sống trong miền nhiệt đới...

Hoặc Bác viết về Cao Bằng:

Cao Bằng đông bắc giáp Tàu
Hà Giang, Bắc Cạn ở vào phía Tây
Nam giáp tỉnh Lạng, gần đây
Bốn nghìn tám dặm tỉnh này gồm bao.
Na-gia, Pia-vắc thật cao
Hơn hai nghìn thước xôn xao một hàng
Sông to thì có Bằng Giang
Xê Lao, Trà Lĩnh chạy ngang hai hàng...

Bác có hai hòn đá. Một hòn tròn và đen, một hòn hơi đục và có cạnh. Hàng ngày Bác dùng hai hòn đá để tập cho cứng gân cốt. Đồng chí Nông Thị Trưng có nói với Bác: Chú Thu ơi, hàng ngày chú đã làm việc vất vả rồi, lúc đọc báo, nghe đài chú ngồi cho thoải mái chứ. Sao chú cứ nắin lấy hai hòn đá đó làm gì?
Bác thân ái chỉ rõ:
- Bác cháu ta trước đây là nhân dân lao động. Bây giờ đi làm cách mạng, do công việc đòi hỏi cho nên ta phải thoát ly. Thoát ly như thế nào rồi về tuyên truyền cách mạng cho quần chúng, ta khoanh tay sau lưng tuyên truyền à. Làm như vậy quần chúng nào người ta nghe. Chưa cuốc được mấy nhát cuốc tay đã phồng lên, quần chúng người ta sẽ bảo cán bộ chỉ nói mép thôi, nhưng làm thì chẳng bằng ai. Cho nên hàng ngày phải luyện tập cho da tay phồng lên, để khi đi làm với quần chúng được lâu hơn khỏi phồng tay.
Đó là quan điểm lao động, quan điểm quần chúng và là quan điểm cách mạng của Bác. Trong cuộc đời hoạt động của Bác, lần bị bọn Tưởng bắt là lần Bác khổ nhất, vì theo Bác "cay đắng chi bằng mất tự do".
Bác bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giam từ đầu mùa thu 1942 đến mùa thu 1943 mất 14 tháng trời và trải qua hơn 30 nhà tù. Nó giam Bác trong một phòng kín như bưng, không có ánh sáng lọt vào. Khi nó thả ra, mắt Bác đã lòa đi và chân thì tê liệt. Trong khi Bác ở tù, Trương Phát Khuê đến hỏi cung, hắn hỏi chặn đầu:
Tôi biết ông chính Nguyễn Ái Quốc. Thôi rồi, ông không thể chối được nữa.
Bác thản nhiên trả lời:
- Nếu tôi là Nguyễn Ái Quốc thì thật là hay.
Trương Phát Khuê về bảo là Nguyễn Hải Thần nói láo, đây chỉ là ông đồ yêu nước, chứ đâu có phải là Nguyễn Ái Quốc và nó thả Bác ra. Lúc đó mắt Bác đã bị lòa. Hàng ngày, Bác dậy rất sớm, chờ cho trời sáng dần dần. Khi nhìn thấy ánh sáng mạnh, Bác lại phải quay ngay vào trong tối nuôi con ngươi quen dần để khỏi bị lòa. Lúc nắng, Bác lại đưa chân ra ngoài để cho ánh nắng chiếu vào, những con dòi chui ra và Bác cho thuốc vào chữa đôi chân. Bác dựa vào lan can để tập đi. Bác lại tập leo núi.
Đây là tinh thần trách nhiệm của Bác đối với Tổ quốc.
Chính vì tinh thần cách mạng của Bác cao như thế, Bác đã kịp trở về đưa cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đến thành công. Bác đã được Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào nhất trí bầu làm Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng. Khi đoàn quân giải phóng trở về Thủ đô Hà Nội khởi nghĩa cướp chính quyền, Bác về ở nhà số 48 phố Hàng Ngang viết Tuyên ngôn độc lập. Từ đây Bác đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Đất nước anh hùng của chúng ta ngàn năm mãi mãi truyền tụng công lao vĩ đại của Bác. Bác là cây đại thọ Việt Nam mà rễ ǎn sâu xuống lòng đất, đời đời xanh tươi. Bóng mát che rợp cả ba phần tư thế kỷ 20. Công huân của Bác đối với Tổ quốc, đối với nhân dân muôn đời sáng chói.
Hồ Chủ tịch là người sáng lập lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam và Mặt trận dân tộc thống nhất, là người cha thân yêu, của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên nhừng trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta.
"Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". (2)

(1) Đây là ước lượng diện tích đất liền, chưa kể các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo khảc trên biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam. (BT)
(2) Điếu vǎn của Ban chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Lê Duẩn đọc trong lễ"truy điệu Hồ Chủ tịch ngày 9-9-1969 tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội


TẤM LÒNG CỦA BÁC HỒ VỚI CHIẾN SĨ


Đối với chiến sĩ là những người hy sinh nhiều nhất cho dân tộc, Bác Hồ thường dành cho anh em sự chăm lo, săn sóc ân tình, chu đáo nhất.
Mùa đông, thương anh em chiến sĩ rét mướt ở rừng núi hay bưng biền, Bác đem tấm áo lụa của mình được đồng bào tặng, bán đấu giá để lấy tiền mua áo ấm gửi cho các chiến sĩ.
Bác thường nói: “Chiến sĩ còn đói khổ, tôi ăn ngon sao được!”. “Chiến sĩ còn rách rưới, mình mặc thế này cũng là đầy đủ lắm rồi!”.
Mùa hè năm ấy (1967), trời Hà Nội rất nóng. Sức khỏe Bác Hồ đã kém, thần kinh tuổi già cũng suy nhược, dễ bị toát mồ hôi, ướt đầm, có ngày phải thay mấy lần quần áo, có khi hong tại chỗ, rồi lại thay ngay. Bác không cho dùng máy điều hoà nhiệt độ. Bác bảo: Mùi nó hôi lắm, Bác không chịu được! (Bác không dùng nên nói vậy thôi, chứ máy đã có nút xã thơm).
Thấy trời oi bức quá, Bác nói với đồng chí Vũ Kỳ:
- Nắng nóng thế này, các chú bộ đội trực phòng không trên nóc hội trường Ba Đình thì sao chịu được? Các chú ấy có đủ nước uống không? Chú thử lên tìm hiểu xem thế nào, về cho Bác biết.
Đồng chí Vũ Kỳ lên, được biết trên đó có một tổ súng 14 ly 5. Ụ cát sơ sài, nêu địch bắn vào thì chỉ có hy sinh, rất nguy hiểm.
Trời nắng chói, đứng một lúc mà hoa cả mắt. Đồng chí Vũ Kỳ hỏi:
- Các đồng chí có nước ngọt uống không?
- Nước chè thường còn chưa có, lấy đâu ra nước ngọt!
Đồng chí Vũ Kỳ về nói lại với Bác, Bác gọi điện ngay cho đồng chí Văn Tiến Dũng:
- Sao các chú không lo đủ nước uống cho các chiến sĩ trực phòng không? Nghe nói ụ súng trên nóc hội trường rất sơ sài, chú phải lo sửa ngay để đảm bảo an toàn cho chiến sĩ trong chiến đấu!
Sau đó Bác bảo đồng chí Vũ Kỳ đi lấy sổ tiết kiệm của Bác, xem tiền tiết kiệm của Bác còn bao nhiêu.
Tại sao Bác có tiền tiết kiệm? Lương Bác cao nhất nước, nhưng hàng tháng cũng chỉ đủ tiêu. Mọi chi phí sinh hoạt của Bác, từ cái chổi lông gà, đều ghi vào lương cả.
Tiền tiết kiệm của Bác là do các báo trả nhuận bút cho Bác. Bác viết báo nhiều, có năm hàng trăm bài. Các báo gửi đến bao nhiêu, văn phòng đều gửi vào sổ tiết kiệm của Bác. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác cũng đã có tiền tiết kiệm. Đến dịp Tết Nguyên đán, Bác lại đem chia cho cán bộ các cơ quan chung quanh Bác mua lợn để đón xuân.
Đồng chí Vũ Kỳ xem sổ và báo cáo:
- Thưa Bác, còn lại tất cả hơn 25.000 đồng (lúc đó là một món tiền rất lớn, tương đương với khoảng 60 luợng vàng).
Bác bảo:
- Chú chuyển ngay số tiền đó cho Bộ Tổng tham mưu và nói: “Đó là quà của Bác tặng để mua nước ngọt cho anh em chiến sĩ trực phòng không uống, không phải chỉ cho những chiến sĩ ở Ba Đình, mà cho tất cả các chiến sĩ đang trực chiến trên mâm pháo ở khắp miền Bắc. Nếu số tiền đó không đủ thì yêu cầu địa phương nào có bộ đội phòng không trực chiến góp sức vào cùng lo!”
Về sau, Bộ Tư lệnh Phòng không quân báo cáo lại cho Văn phòng Phủ Chủ tịch biết: Số tiền của Bác mua nước uống cho bộ đội phòng không, không quân được một tuần.
Theo TRẦN ĐỨC HIẾU
(Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức
của Chủ tịch Hồ Chí Minh)
(Hậu Giang, số 389 ngày 16/3/2007)


TẤM LÒNG CỦA BÁC VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ

Ngày 10-3-1946 Báo Cứu quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam bộ. Trong thư có đoạn Người viết: “Tôi xin kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”.
Tiếp sau đó, trong Thư gửi đồng bào miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại viết: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam đã vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”.
Hơn nửa tháng sau khi đi Pháp về, ngày 7-11-1946, Người đã đến dự lễ “Mùa đông binh sĩ” do Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam tổ chức tại Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, vận động đồng bào ở hậu phương đóng góp tiền của để may áo trấn thủ cho chiến sĩ, thương binh, bệnh binh.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia quân đội. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bịnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn, mặc dù anh chị em tình nguyện chịu đựng không kêu ca, phàn nàn.
Trước tình hình ấy, tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm ngày “Thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Có lẽ - trừ những ngày kỷ niệm quốc tế - “Ngày thương binh” là ngày kỷ niệm trong nước đầu tiên được tổ chức.
Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu Trung ương, khu và tỉnh. Hội nghị nhất trí lấy ngày 27-7 hàng năm là ngày thưưong binh liệt sĩ và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.
Báo Vệ quốc dân số 11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Đầu thư Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Thương binh là người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”.
Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và của tất cả các nhân viên của Phủ Chủ tịch, tổng cộng là 1.127 đồng để tặng thương binh.
Năm sau, ngày 27-7-1948, trong một lá thư dài đầy tình thương yêu, Bác nói: “Nạn ngoại xâm như trận lụt to đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc, đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh, tài sản, chìm đắm cả bố mẹ, vợ con, dân ta. Trong cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào”.
Người xót xa viết: “Họ quyết liều chết chống địch, để cho Tổ quốc và đồng bào sống. Ngày nay, bố mẹ họ mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên bà góa. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh bài tử sĩ. Tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh”.


Theo tấm lòng của Bác.

HG, số 394 ngày 28/3/2007



SỰ GIẢN DỊ CỦA BÁC HỒ

Qua bao năm tháng năm tháng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Hồ Chủ tịch tích lũy được vốn kiến thức rất uyên thâm, kết tinh tinh hoa trí tuệ loài người, nhưng khi đến với cán bộ, quần chúng nhân dân, Bác đã chuyển hoá những kiến thức đó thành những câu chuyện nhẹ nhàng, dễ hiểu, rất bình dị và gần gũi.
Đầu năm 1946, có cuộc họp cán bộ từ Trung ương đến các địa phương. Bác đến thăm và nói chuyện, khi giải thích mối quan hệ giữa chính sách của Chính phủ với nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ địa phương, Bác dùng một tấm bìa hình tam giác cân. Bác quay đáy tam giác lên trên, hướng đỉnh xuống dưới và nói, đây là chủ trương của Chính phủ (vừa nói Bác vừa chỉ tay dọc đáy trên của tấm bìa) có nhiều vấn đề lớn.
Rồi Bác chỉ tay xuống đỉnh tam giác phía dưới và nói, nhưng những chủ trương đó qua nhiều cấp, nhiều cán bộ yếu kém đến khi xuống dân thì bé lại chỉ còn chừng này. Sau đó, Bác lật tấm bìa đáy xuống dưới, đỉnh lên trên và giải thích, chiều đáy là nguyện vọng của nhân dân, có rất nhiều, rất phong phú được phản ánh từ cơ sở nhưng khi qua nhiều cấp, nhiều cán bộ thì chỉ còn bé chừng này, Bác chỉ tay vào đỉnh trên, xong Bác kết luận: “Vậy thì chúng ta phải làm gì để cho Chính phủ gần dân”. Ai dự họp cũng đều thấm thía lời dạy của Bác và tự tìm ra câu trả lời đúng với công việc của của mình.
Cũng trong năm 1946, Nhà nước cách mạng non trẻ phải đối phó với nhiều kẻ thù trong giặc ngoài, bọn Việt cách, Việt quốc gây cho ta bao khó khăn, gian nan. Nhiều người lên yêu cầu Bác cho quét sạch chúng đi, Bác cười bảo: “các chú giữ sức đánh Tây?”, rồi Bác giải thích “dòng nước đang chảy có cây gỗ chắn ngang, làm rác rưởi, lá cây đọng lại, các chú cứ vứt từng cái rác, từng cái lá thì không xuể mà phải tìm cách gạt cây gỗ đi thì dòng nước sẽ thông thoát”.
Trong thời kỳ kháng chiến nhiều cán bộ đi tuyên truyền về đường lối “trường kỳ kháng chiến”, khi nhân dân chất vấn “kháng chiến khi nào thành công?” nhiều người không giải thích được bèn về hỏi Bác. Bác bảo: “Các chú biết rằng đồng bào ta phần lớn là nông dân thì phải lấy hình ảnh cụ thể, để đồng bào dễ hiểu, các chú lấy chữ nghĩa, nào là “phụ thuộc”, “khách quan”, “chủ quan” thì dân ít người hiểu, mà phải lấy những ví dụ cụ thể như muốn có khoai ăn, lúa ăn cũng phải chờ đến 3 tháng hoặc 6 tháng mới có thu hoạch, người phụ nữ có thai cũng phải hơn 9 tháng mới sinh con. Khi đến với nhân dân, với đồng chí, Bác ở bên họ như người thân, không có sự cách biệt giữa lãnh tụ với dân. Con người Bác, phong cách Bác, tư tưởng Bác toát lên một chân lý dễ hiểu: dân dã mà thanh cao, cụ thể dễ hiểu mà uyên bác, tinh tuý.
THƯỜNG SAN (Hậu Giang số 382, ngày 28/2/2007)


TỪ ĐÔI DÉP ĐẾN CHIẾC Ô TÔ


Đôi dép của Bác “ra đời” vào năm 1947, được “chế tạo” từ một chiếc lốp ô tô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc.
Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác.
Trên đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng:
- Đây là đôi hài vạn dặm trong truyện cổ tích ngày xưa. Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được.
Chẳng những khi “hành quân” mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm chân, tiếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy.
Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép…
Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các đồng chí cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin” Bác đôi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được”.
Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giầy mới…
Máy bay hạ cánh xuống NiuĐêli. Bác tìm dép. Anh em thưa:
- Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi…Thưa Bác…
Bác ôn tồn nói:
- Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi đôi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế mà đủ lắm mà vẫn lịch sự…
Thế là các ông “tham mưu con” phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi…
Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, chụp ảnh lại rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép… làm anh em phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy.
Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên ấy”, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác, Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại:
- Thôi, các cháu dẫm làm tụt quai dép của Bác rồi…
Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên:
- Thưa Bác, cháu, để cháu sửa…
- Thưa Bác, cháu, cháu có “rút dép” đây…
Nhao nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh rồi; có “rút” cũng vô ích…
Bác cười nói:
- Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng cả chứ!
Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo quai dép ra, “thách thức”:
- Đây, cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác...
Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến....
Bác phải giục:
- Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh:
- Tôi, để tôi sửa dép...
Mọi người giãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong.
Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn:
- Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ!...
Bác nhìn các chiến sĩ nói:
- Các cháu nói đúng... nhưng chỉ có đúng một phần....Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn “thọ” lắm! Mua đôi khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên...Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...
Đôi dép cá nhân đã vậy, còn đôi dép “ô tô” của Bác cũng thế. Chiếc “Pa-bê-đa” sản xuất tại Liên Xô Bác vẫn đi, đã cũ, văn phòng xin “đổi” xe khác, “đời mới” hơn, tốt hơn, nhưng Bác không chịu:
- Xe của Bác hỏng rồi à?

Anh em thưa rằng chưa hỏng, nhưng muốn thay xe để Bác đi nhanh hơn, êm hơn. Bác nói:

- Ai thích nhanh, thích êm thì đổi....
Hôm sau đến giờ đi làm, không biết là xe hỏng thật hay “ai” xui mà Bác đứng đợi bên xe mà xe cứ “ì” ra. Bác cười bảo đồng chí lái xe:
Máy móc có trục trặc, chú cứ bình tĩnh sửa. Sửa xong Bác cháu ta đi cũng kịp...
Vài phút sau, xe nổ máy...
Bác lại cười nói với đồng chí lái xe, cảnh vệ:
- Thế là xe vẫn còn tốt!
Theo MINH ANH


(Những mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh)


Hậu Giang , số 388, ngày 14/3/2007


DÙ TÁ HAY TƯỚNG ĐỀU PHẢI LO PHỤC VỤ NHÂN DÂN


Vào khoảng tháng 7-1944, một máy bay Mỹ bị quân Nhật bắn rơi ở Hoà An, Cao Bằng. Phi công Mỹ nhảy dù rơi xuống cánh rừng đã bị du kích địa phương bắt.
Lúc này Mỹ ở trong phe Đồng minh chống phát xít. Phi công Mỹ được đưa đến chỗ chúng tôi. Bác gọi tôi đến, chỉ thị:
Tuy ta còn thiếu thốn, nhưng các chú cố gắng cho anh ta ăn uống tương đối, cư xử tử tế, nhân đạo để họ hiểu ta.
- Vâng lệnh Bác, chúng tôi đã làm như vậy. Phi công Mỹ được ăn với khẩu phần hơn chúng tôi.

Sau đó mấy ngày, Bác cho đưa anh ta đến gặp Bác. Bác hỏi chuyện bằng tiếng Anh. Người phi công vô cùng ngạc nhiên, trố mắt nhìn Bác đầy vẻ kính phục, không sao hiểu nổi ở chốn rừng núi này lại gặp được một ông già gầy guộc, mặc áo chàm với đôi mắt rực sáng lại nói tiếng Anh rất thành tạo, am hiểu phong tục nước Mỹ.

Sao (Shaw) – tên người phi công – tha thiết xin được trả về Bộ Chỉ huy Mỹ đang đóng trên đất Trung Quốc, dù có phải tốn phí đến bao nhiêu khi về nước cũng xin Chính phủ Mỹ và gia đình lo chịu.
Bác mỉm cười và giải thích thêm:
- Các anh trong quân đội Đồng minh, cùng chung một mục đích chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình thế giới. Chúng tôi cư xử với anh như thế này là thể hiện những cam kết thiện chí chứ không phải dùng anh vào mục đích kiếm lợi.
Sao đã hiểu và càng kính phục, tin tưởng Bác. Sau đó, chính anh ta đã được Bác cho theo sang Côn Minh, trao lại cho Bộ Tư lệnh Mỹ.
… Bác ở Trung Quốc về được một thời gian, Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ điện cho Bác, xin được cử người sang hợp tác bằng cách họ sẽ cho người nhảy dù xuống căn cứ Tân Trào.
Tôi lại được Bác giao nhiệm vụ đón 5 người Mỹ này. Chúng tôi đốt lửa lấy khói làm ám hiệu cho máy bay biết mục tiêu. Khi họ nhảy dù xuống, chúng tôi tập hợp bộ đội hoan hô họ. Họ rất cảm động trước việc làm đó của ta.
Sau khi tiếp 5 nhân viên tình báo quân sự Mỹ, họ đều được Bác giao nhiệm vụ.
Bác chỉ thị thành lập đại đội Việt - Mỹ và chỉ thị tôi làm đại đội trưởng.
Một người Mỹ mang hàm thiếu tá tên là Tômát làm tham mưu trưởng đại đội. Lúc đó, tôi còn nhớ là tôi rất tự hào. Tôi thưa với Bác là nếu thiếu tá làm tham mưu trưởng, thì đại đội trưởng gọi là cấp gì, nào ngờ nét mặt Bác nghiêm lại. Bác bảo:
- Chú phải lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt, dù tá hay tướng, đã là một chiến sĩ cách mạng cũng đều phải lo phục vụ nhân dân cho tất cả.
Từ bấy đến nay tôi luôn luôn nhớ lời dạy ấy.


BÍCH HẠNH

Ghi lời kể của Thượng tướng Đàm Quang Trung


(Hậu Giang, số 402 – ngày 16 – 4 – 2007)



BÁC HỒ VỚI THỜI GIAN

Sinh thời, Bác Hồ của chúng ta yêu cái gì nhất, ghét cái gì nhất? Kể cũng hơi khó trả lời cho thật chính xác, bởi ở ta không có thói quen “tự bạch” và kín đáo, ý nhị vốn là đặc điểm của lối ứng xử phương Đông.
Tuy nhiên, theo dõi qua tác phẩm, hoạt động và sinh hoạt đời thường, điều ta có thể thấy rõ cái mà Người ghét nhất, “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm” là cái thói quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí tiền bạc và thời gian của nhân dân.
Ở một mức độ khác, thấp hơn, những người có điều kiện tiếp xúc và làm việc với Bác Hồ, điều thấy rõ nhất là Bác rất khó chịu khi thấy cán bộ làm việc không đúng giờ.
Năm 1945, mở đầu bài nói chuyện tại lễ tốt nghiệp khoá V, Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Người thẳng thắn góp ý: “Trong giấy mời tới đây nói 8 giờ bắt đầu, bây giờ 8 giờ 10 phút rồi mà nhiều người chưa đến. Tôi khuyên anh em phải làm việc cho đúng giờ, vì thời gian quý báu lắm”.
Trong kháng chiến chống Pháp, một đồng chí cấp tướng đến làm việc với Bác sai hẹn mất 15 phút, tất nhiên là có lý do: mưa to, suối lũ, ngựa không qua được. Bác bảo:
- Chú làm tướng mà chậm đi mất 15 phút thì bộ đội của chú sẽ hiệp đồng sai đi bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan, không chuẩn bị đầy đủ các phương án, nên chú đã không giành được chủ động.
Một lần khác, Bác và đồng bào phải đợi một đồng chí cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp. Bác hỏi:
- Chú đến chậm mấy phút?
- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
- Chú tính thế không đúng, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đợi ở đây.
Bác quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu, vì vậy thường không để bất cứ ai phải đợi mình.
Năm 1953, Bác quyết định đến thăm lớp chỉnh huấn của anh chị em trí thức, lúc đó đang bước vào cuộc đấu tranh tư tưởng gay go. Tin vui đến làm náo nức cả lớp học, mọi người hồi hộp chờ đợi.
Bổng chuyển trời đột ngột, mây đen ùn ùn kéo tới, rồi một cơn mưa dồn dập, xối xả, tối đất, tối trời, hai ba tiếng đồng hồ không dứt. Ai cũng xuýt xoa tiếc rẻ: mưa thế này, Bác đến sao được nữa, trời hại quá.
Giữa lúc trời đang trút nước, lòng người đang thất vọng, thì từ ngoài hiên lớp học có tiếng rì rào, rồi bật lên thành tiếng reo, át cả tiếng mưa ngàn, suối lũ:
- Bác đến rồi anh em ơi! Bác đến rồi!

Trong chiếc áo mưa ướt sũng nước, quần xắn đến quá đầu gối, đầu đội nón, Bác hiện ra giữa niềm ngạc nhiên, hân hoan và sung sướng của tất cả mọi người.
Về sau, anh em được biết: Giữa lúc Bác chuẩn bị đến thăm lớp thì trời đổ mưa to. Các đồng chí làm việc bên cạnh Bác đề nghị Bác cho báo hoãn lại đến một buổi khác. Có đồng chí đề nghị tập trung lớp học ở một địa điểm gần nơi ở của Bác…, nhưng Bác không đồng ý: “đã hẹn thì phải đến, đến cho đúng giờ, đợi trời tạnh thì biết khi nào? Thà chỉ một mình Bác và một vài chú nữa chịu ướt còn hơn để cho cả lớp học phải chờ uổng công!”.
Ba năm sau, giữa thủ đô Hà Nội đang vào xuân, câu chuyện có thêm một đoạn mới. Vào dịp Tết cổ truyền của dân tộc, hàng trăm đại biểu các tầng lớp nhân dân thủ đô tập trung tại Ủy ban hành chính thành phố để lên chúc Tết Bác Hồ. Sắp đến giờ lên đường, trời bổng đổ mưa như trút. Giữa lúc mọi người còn đang lúng túng thu xếp phương tiện cho đoàn thể đi để Bác khỏi phải chờ lâu, thì bỗng xịch, một chiếc xe đậu trước cửa. Bác Hồ từ trên xe bước xuống, cầm ô đi vào, lần lượt bắt tay, chúc Tết mỗi người, trong nỗi bất ngờ rưng rưng cảm động của các đại biểu.
Thì ra, thấy trời mưa to, thông cảm với khó khăn của ban tổ chức và không muốn các đại biểu vì mình mà vất vả, Bác chủ động, tự thân đến tại chỗ chúc Tết các đại biểu trước. Thật đúng là mối hằng tâm của một lãnh tụ suốt đời quên mình, chỉ nghĩ đến nhân dân, cho đến tận phút lâm chung, vẫn không quên dặn lại: “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thời giờ và tiền bạc của nhân dân”.

Theo SONG THÀNH

Hậu Giang, số 387 ngày 12/3/2007

BÁC HỒ VỚI VIỆC CHI TIÊU

-Các đồng chí ở gần Bác đều cho biết Bác rất tiết kiệm. Có đôi tất rách đã vá đi, vá lại mấy lần Bác cũng không dùng tất mới. Bác nói:
- Cái gì còn dùng được nên dùng. Bỏ đi không nên…
Khi tất rách chưa kịp vá, anh em đưa đôi mới để Bác dùng, Bác xoay chỗ rách vào bên trong rồi cười xí xoá:
- Đấy, có trông thấy rách nữa đâu…
Có quá chuối hơi nẫu, anh cán bộ chê không ăn, Bác lấy dao gọt phần nẫu đi, bóc ăn ngon lành rồi nói:
- Ở chiến khu có được quả chuối này cũng đã quý….
Câu nói và việc làm của Bác làm đồng chí cán bộ hối hận mãi.
Dù cho đã làm đến Chủ tịch nước, suốt trong những năm ở Việt Bắc, ở Hà Nội, Bác chưa bao giờ “có tiền” (như anh em cán bộ, chiến sĩ công tác quanh Bác thường nhận xét)
Thực tế lịch sử cho thấy rằng: Suốt thời gian hoạt động của Bác ở nước ngoài, Bác gặp rất nhiều khó khăn về tài chính do những nguyên nhân khác nhau. Được đồng nào, chủ yếu do lao động tự thân mà có, Bác dành cho công tác cách mạng. Bác chi tiêu rất dè xẻn, cân nhắc từng xu. Liên hoan mừng thành lập đảng cũng chỉ có bát cơm, món xào, tô canh, dĩa cá. Chiêu đãi đồng chí Lý Bội Quần, người Trung Quốc, người đã mua chiếc máy chữ từ Hải Phòng về tặng Người (năm 1939), Bác cũng chỉ “khao một món canh và hai dĩa thức ăn, thêm hai lạng rượu, tổng cộng chưa hết một đồng bạc”.
Tự thết đãi mình “khi nghe tin Hồng quân bắt sống 33 vạn quân Hítle ở Xtalingrát năm 1943”, tại nhà tù, trong túi chỉ còn vỏn vẹn một đồng bạc, Bác đã “nhờ người lính gác mua giùm cho ít kẹo và dầu chả quẩy”. Sau khi phấn khởi hô mấy khẩu hiệu hoan nghênh thắng lợi của Liên Xô, Bác “ngồi một mình, chén tạc, chén thù rất đàng hoàng, vui vẻ”…
Năm 1957, Bác về thăm Nghệ Tĩnh, khi ăn cơm chung với đồng chí Nguyễn Sĩ Quế, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Diện, Bác đã để bớt ra ngoài mâm mấy món ăn, rồi nói: “Ăn hết lấy thêm, không ăn hết để người khác ăn, đừng để người khác ăn thừa của mình”.
Có thể dẫn ra nhiều nữa những ví dụ về cách chi tiêu, sử dụng tiền bạc, cơ sở vật chất của Bác, rất “mâu thuẫn thống nhất”: chắt chiu, tằn tiện nhưng vẫn rộng rãi, không hoang phí mà cũng không keo kiệt, “ki bo”.
Thế giới, loài người tự hào về Bác. Là người Việt Nam, đồng hương của Bác, chúng ta càng tự hào biết bao! Cách ứng xử của Bác với hiền tài, với cái ăn, cái mặc, với cơ sở vật chất nói chung đâu có phải là cao quá mà chúng ta không học tập được, đâu có phải là một toà thánh cấm uy nghiêm mà chúng ta không đặt chân lên được thềm bậc, dù là bậc thềm thứ nhất?


Theo NGUYỄN VIỆT HỒNG


Hậu Giang, số 385, ngày 07/3/2007


BÁC HỒ TĂNG GIA RAU CẢI

Mùa đông năm 1952, lúc đó tôi đang công tác tại Văn phòng Trung ương Đảng. Trụ sở cơ quan đóng tại đèo Re (núi Rồng). Cơ quan Phủ Chủ tịch cũng ở sát ngay cạnh đó. Sau Hội nghị chính quyền lần thứ 5 (tháng 3-1952), Chính phủ đã phát động phong trào tăng gia, sản xuất, tiết kiệm trong toàn quốc.
Ở Trung ương, cơ quan này thi đua tăng gia với cơ quan khác. Vì hai cơ quan gần nhau, tôi được công đoàn cử ra thi đua tăng gia với cơ quan Văn phòng Trung ương.
Buổi lễ phát động thi đua diễn ra thật sôi nổi. Tôi đang sức trẻ nên thay mặt anh em đứng lên thách thức thi đua: Cùng một khoảng đất như nhau 36 m2, trong một thời gian nhất định, tôi xin trồng rau ăn với sản lượng cao nhất. Bác cũng đứng lên: Bác nhận thách thức thi đua tăng gia với chú Thông, với mảnh đất 36 m2 trong một thời gian bằng nhau, đạt sản lượng nhiều hơn chú Thông. Mọi người vỗ tay hoan hô. Một số đồng chí xì xào: Một cuộc thi đua không cân sức. Bác vừa già, vừa bận nhiều việc địch sao được với cậu Thông khỏe như voi, trồng rau đã quen. Có người nêu: “Giải thưởng thi đua là một con gà trống 2kg”, mọi người lại hoan hô tán thưởng. Mấy đồng chí ở Văn phòng Trung ương nói to: “Nhất định chuyến này chúng ta được ăn thịt gà của Phủ Chủ tịch”. Bác nói vui: “Các chú muốn ăn gà của Chủ tịch thì phải tích cực tăng gia để có nhiều rau xanh cung cấp cho nhà bếp của cơ quan”.
Tôi về suy nghĩ: để chắc ăn và có năng suất cao thì trồng cải củ, vì cải củ vùng này củ rất to, rất nặng. Tôi trao đổi với anh em công đoàn, mọi người ủng hộ cho là sáng kiến.
Sau một tuần, tôi đã làm đất và trồng xong 36 m2 cải củ. Ngay sát mảnh đất của tôi, Bác và anh em bên Phủ Chủ tịch làm rất kỹ, rất nhỏ, mịn và sạch cỏ. Hơn một tuần thì Bác gieo hạt cải mào gà (cải xanh lá xoan). Anh em Văn phòng Chủ tịch làm chỗ đi tiểu gần nhà và mua một nồi hông lớn để hứng nước tiểu. Phía Văn phòng Trung ương tôi cũng huy động anh em làm nhà tiêu để lấy phân bón.
Sau một tuần các cây cải mọc đều và đẹp. Bác lấy nước tiểu pha loãng tưới. Còn tôi lấy phân bắc tươi hoà ra tưới. Mỗi lần tưới cả cơ quan bịt mũi.
Sau một tháng, hai vạt rau tốt ngang nhau. Nhiều người ủng hộ tôi cho rằng tôi sẽ thắng vì củ cải lớn rất nhanh.
Một hôm Bác nhổ rau bán cho nhà bếp chỉ được 15 kg. Bác để lại những cây to, khỏe, mỗi cây cách nhau chừng hai gang. Một số anh em lo lắng vì thấy vườn rau Bác nhổ đi xơ xác mà chỉ được có 15 kg rau cải con. Ba buổi chiều liền, sau giờ làm việc Bác đều ra vườn cùng chiếc dầm xới đất cho cải và tưới nước giải đều.
Sau hai tháng mười ngày thì củ cải của tôi to bằng bắp tay và có cây đã có nụ. Tôi nhổ và cân cho nhà bếp được 60 kg. Tôi vui mừng vì thắng lợi. Nhưng cũng lúc đó, cây cải mào của Bác đã to bằng cái nơm, cứ 5 ngày một lần Bác tỉa tàu cân cho nhà bếp khoảng 10 kg. Kỳ lạ thay cải mào gà càng tỉa cây vàng lớn, tàu càng to và càng trẻ lâu. Sau hai tháng rưỡi cải mới có ngồng. Lúc đó Bác nhổ cả cây cho nhà bếp muối dưa. Bác còn đem biếu cụ già dân tộc gần đó hai cây rất to làm giống. Cụ già sung sướng khoe với mọi người: “Rau cải cụ Hồ tốt thật”
Mở sổ nhà bếp ra cộng
- Cải con: 15 kg
- Tàu cải xanh: 14 lần x 10 kg = 140 kg
- Cây cải làm dưa nén : 20 kg.
Cộng: 175 kg.
Vậy tôi thua đã rõ ràng. Công đoàn Văn phòng Trung ương phải nộp con gà trống nuôi được cho công đoàn Văn phòng Phủ Chủ tịch. Nhờ có rau tăng gia mà cả mùa đông nhà bếp đủ rau nấu, không phải ra dân mua. Buổi tổng kết thật vui vẻ. Tôi đứng dậy xin nhận thua. Bác nói chuyện với anh em: khi tăng gia, các cô, các chú phải lưu ý bốn điều kiện: giống, cần, phân, nước. Giống: nên chọn loại rau trồng một lần, ăn nhiều lần, củ cải dễ trồng, năng suất cao, nhưng chỉ ăn được một lần thì không bằng cải mào gà, trẻ lâu, tỉa ăn được nhiều lần. Cần: người trồng rau phải chăm chỉ chọn đúng thời vụ trồng rau cho hợp khí hậu, rau mới tốt,. Vun xới phải đúng cách. Cải mào gà khi tốt cứ 10 ngày xới một lần cho rễ con đứt, chúng ra nhiều nhánh rễ hơn và hút được nhiều phân bón, muối khoáng trong đất. Phân: phải chọn loại phân bón thích hợp. Cải xanh rất hợp với nước tiểu pha loãng. Thứ phân tươi chú Thông bón cũng tốt đấy, nhưng mất vệ sinh lắm. Nước: phải tưới đều và tưới đủ độ ẩm rau mới trẻ lâu và xanh tốt.
Lần ấy thua Bác, tôi hết chủ quan và rút được bài học mới về tăng gia.
Theo HỒ VŨ

Hậu Giang, số 386, ngày 09/3/2007



HỌC TÁC PHONG SÂU SÁT CỦA BÁC


Vinh dự cho cuộc đời chiến sĩ của tôi đã được đón Bác Hồ ba lần về thăm Trường sĩ quan Lục quân. Lần thăm nào cũng vậy, Bác đều đến bếp ăn xem thành tích tăng gia sản xuất của cán bộ, chiến sĩ. Bác xem kỹ thực đơn. Có lần Bác hỏi:
- Cán bộ đại đội, tiểu đoàn có cùng ăn chung với học viên không?
- Dạ thưa Bác, có ạ!
Đồng chí hiệu trưởng trả lời Bác. Bác thăm bệnh xá, hỏi y, bác sĩ có đủ thuốc để chữa bệnh không? Bộ đội hay mắc bệnh gì…?
Nhớ đến Bác là nhớ đến tác phong quần chúng hết sức gần gũi mọi người; tình yêu thương vô bờ bến của Bác dành cho nhân dân cả nước. Những lời dạy của Bác thật dễ hiểu, cụ thể giản dị nhưng vô cùng sâu sắc.
Tiếc rằng hôm nay một số cán bộ, đảng viên tuy đã được học tập tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ nhưng lại không làm theo Bác. Nhiều người nói thì tốt đấy nhưng lại khó làm hoặc việc làm không được như lời nói. Nhất là căn bệnh quan liêu xa dân, rất ít sâu sát cơ sở để nghe trực tiếp ý kiến, nguyện vọng, nhìn tận mắt cuộc sống của nhân dân và dường như cán bộ của địa phương nào, ngành nào cũng có. Giải quyết việc cho dân còn phiền phức qua nhiều bậc trung gian, sợ những lời nói thật, một số còn gây phiền hà cho dân hoặc mắc tội tham ô, lãng phí.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là đạo đức cách mạng mà Bác dạy cán bộ phải có. Mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta phải thường xuyên lấy đạo đức của Người để soi xét lại lời nói và hành động của mình, phấn đấu tích cực để cùng với toàn dân thực hiện có hiệu quả mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh.
Theo Nguyễn Thụ, báo QĐND điện tử

CHÚNG TA CÀNG NHỚ BÁC HỒ, CÀNG PHẢI


CỐ GẮNG LÀM THEO LỜI BÁC HỒ DẶN



Đồng chí Vũ Kỳ kể - Thu Thủy ghi


Ngày 22-8-1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp (lúc bấy giờ, đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư) quyết định: cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Tân Trào đón Bác Hồ về Hà Nội. Nhận được tin, Bác không đợi đến khi có người lên đón, mà sáng ngày 23-8, Người đã rời lán Nà Lừa (Tân Trào, Tuyên Quang), đi bộ qua đèo Gie đến 8 giờ tối thì đến Đại Từ (Thái Nguyên). 9 giờ tối đồng chí Trần Đăng Ninh mang xe ô tô đến Đại Từ đón Bác và đi luôn. Khi về đến một địa điểm ở Thái Nguyên, Bác và các đồng chí khác nghỉ lại đêm đó và cả ngày hôm sau. Sở dĩ như vậy là để nghe ngóng tình hình, giữ bí mật cho an toàn.
Ngày 25 về đến Gia Lâm, nếu lúc đó xe của Bác đi thẳng qua cầu, e sẽ không an toàn. Thế là Bác đi đò ngang sang bến Sù Ngà gần Chèm, rồi nghỉ ở một gia đình cách mạng. Sáng ngày 26, đồng chí Trần Đăng Ninh, đồng chí Võ Nguyên Giáp đến báo cáo tình hình và đón Bác vào nội thành. Từ đê Yên Phụ, xe chở Bác xuống dốc Hàng Than, đi qua Hàng Giấy, Hàng Mã, ra Hàng Cân và rẽ vào số nhà 35. Đây chính là cổng sau của số nhà 48 Hàng Ngang (một gia đình tư sản dân tộc). Tại đây, Bác đã đặt bút viết bản Tuyên ngôn độc lập. Tuyên ngôn độc lập được viết từ ngày 28-8-1945, đến ngày 30 thì thảo xong. Ngày 31, Bác đưa cho các đồng chí Thường vụ Trung ương tham gia ý kiến. Sau đó, Bác tiếp tục hoàn chỉnh bản Tuyên ngôn tại Bắc Bộ phủ (Số 12 Ngô Quyền, Hà Nội).
Chiều 31, Bác gọi tôi lại và bảo: "Chú Cần, chú có biết cái chỗ họp mít-tinh hôm mùng 2-9 này không?" (Lúc đó tôi tên là Nguyễn Cần. Tên Kỳ bây giờ như mọi người thường gọi đó là tên của Bác đã đặt cho tôi hồi tháng 3-1947). Tôi nói: "Thưa Cụ, cháu có biết". Bác lại bảo tôi: "Thế chú vẽ phác đi cho tôi xem". Thế là tôi vẽ. Vẽ xong, Bác nhìn tấm bản đồ hỏi tiếp: "Chỗ này liệu đứng được bao nhiêu người?". "Dạ thưa Cụ, chỗ này cũng phải vài chục vạn"- tôi trả lời Bác. Tưởng như Bác đã hài lòng về tấm bản đồ ấy, nhưng mọi người biết không, có một điều rất "nhỏ" mà tôi không ngờ Bác vẫn để ý, Bác hỏi tôi thế này: "Này, thế các chú định bố trí chỗ vệ sinh cho đồng bào ở đâu?" Sau câu hỏi ấy, tôi cứ sững sờ và không biết trả lời thế nào, đành thưa với Bác: "Thưa Cụ, cháu không rõ, để cháu hỏi Ban tổ chức". Nói tới đây, cụ Vũ Kỳ cắt nghĩa cho tôi: Đấy, Bác quan tâm đến môi trường là Bác chăm lo sức khỏe cho đồng bào đấy thôi. Lúc ấy, Bác bảo tôi: "Chỗ vệ sinh cho đồng bào bố trí như thế nào cho tốt chỉ là một việc nhỏ thôi. Nhưng mà nếu không bố trí tốt, thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và sức khỏe, lại ảnh hưởng đến cả trật tự". Bác cũng dặn tôi thêm: "Chú hãy dặn Ban tổ chức trước đi, nếu trời mưa thì phải rút ngắn thời gian lại để đồng bào khỏi bị ướt, nhất là các cụ, các cháu nhỏ tránh được bệnh tật". Chính những việc nhỏ như vậy đã khiến tôi còn suy nghĩ và nhớ mãi: Bác luôn luôn chăm lo sức khỏe cho đồng bào.
Cụ Vũ Kỳ tiếp tục gợi lên cho chúng tôi những hình ảnh của giờ phút lịch sử thiêng liêng. 13 giờ 30 ngày 2-9- 1945, tôi cùng Bác từ Bắc bộ phủ tới quảng trường Ba Đình. Bác bước lên lễ đài với cương vị là Chủ tịch của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (lúc bấy giờ, ít người biết đến tên Hồ Chí Minh, mà chỉ nghe thấy tên Nguyễn ái Quốc. Thậm chí, Pháp, Trung Quốc, Liên Xô cũng hỏi: Hồ Chí Minh là ai? Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với cả thế giới. Đến đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của phát xít Nhật, bắt dân nhổ lúa, trồng đay để 2 triệu đồng bào Việt Nam lâm vào cảnh chết đói, cả rừng người im lặng phăng phắc. Quên mất mình là Chủ tịch nước, đang đọc Tuyên ngôn độc lập, Bác băn khoăn tự hỏi: Sao lại im đến thế! Bác tưởng rằng mình nói tiếng xứ Nghệ, đồng bào nghe không rõ. Bác bỗng dừng lại, hỏi một câu: "Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?". Câu trả lời: "Có..." như tiếng sấm rền vang.
Nhân đây tôi cũng nói luôn, câu nói: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?" mà mọi người biết đến từ nhiều năm qua thực ra là sai. Sở dĩ tôi biết tỉ mỉ như vậy là vì tôi có thói quen ghi nhật ký. Câu nói đó sai vì khi đem so sánh với nhau thì sẽ thấy khác hẳn. "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?"- câu đó trở thành mệnh lệnh. Còn: "Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?" thì tự nhiên câu hỏi và tiếng trả lời "Có" như gắn bó đạt đến mức thân tình: gắn một người lãnh đạo cao nhất với dân chúng thành mối tình rất thân thiết và gia đình. Đó là điều mà trên thế giới không thể có: Hình ảnh ấy còn đọng mãi trong trái tim tôi.
Còn về vấn đề TDTT? Ngày 3-9-1945, Bác đã đề ra phiên họp đầu tiên của Chính phủ về vấn đề: "Diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm". Ngày 27-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: "Toàn dân tập thể dục". Như thế là Bác đã quan tâm đến sức khỏe của nhân dân từ rất sớm. Báo Thể dục thể thao phải thấy rằng, công việc, nội dung, nhiệm vụ của mình làm là rất quan trọng, phải tuyên truyền sao cho mọi người làm theo lời Bác dạy. Lời kêu gọi đó thật cảm động, ngắn gọn, rõ ràng mà thấm thía. Mở đầu Bác viết: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới. Việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công". Đến đoạn kết thì Bác viết: "Tự tôi ngày nào cũng tập". Trong những dịp như thế này, mọi người cần phải nhớ rõ để mà thực hiện.
Nói về việc tập luyện của Bác thì không thể kể hết được, đặc biệt là từ khi ở nhà tù Tưởng Giới Thạch ra, Bác đã có nhiều bài tập kiên trì đến khó ngờ và cũng hay lắm: luyện mắt bằng nhìn mặt trời, nhìn rừng xanh; luyện tay bằng cách lấy hòn đá bằng quả trứng vịt vừa lòng bàn tay tự nắm, thả ra; tập chân bằng cách bước qua chướng ngại... Hòa bình, trở về Thủ đô, tại Phủ Chủ tịch, từ lối nhà sàn ra, Bác yêu cầu tổ bảo vệ làm cho Bác hàng rào đặt thanh ngang từ thấp đến cao để rèn luyện. Có một lần, Bác bảo: "Chú Kỳ cùng mấy chú hôm nay thi nhảy chụm chân với Bác". Thế rồi chúng tôi cùng thi với Bác, nhưng đến thanh xà ngang đặt cao nhất (40 cm), tôi và anh em bảo vệ đành chịu thua, riêng Bác chụm chân nhún người nhảy qua nhẹ nhàng.
Tới đây, giọng cụ Vũ Kỳ chững lại: Tôi nhớ nhất vào ngày 17-8-1969, Bác ở trên nhà sàn xuống và đi bài quyền. Hôm đó cũng là ngày bác sĩ khám sức khỏe cho Bác và nói rằng: "Bác không nên ngủ ở nhà sàn nữa, vì tim Bác không bình thường. Để tránh sự cố đáng tiếc xảy ra, Bác không nên lên xuống bậc thang nhiều lần". Bác đồng ý, song Bác bảo với chúng tôi: "Không biết các chú nghe thế nào chứ, tim Bác, Bác vẫn thấy bình thường. Nhưng bác sĩ nói thế thì Bác nghe". Sau đó, Bác chuyển sang nhà họp Bộ Chính trị để làm việc. Những ngày tiếp theo, Bác vẫn dậy tập thể dục rất đều. Nhưng đến chiều ngày 24-8-1969, Bác đã bị sốc trong khi tiêm, sau đó là bị nhồi máu cơ tim, Bác nằm liệt từ đó.
Trong quá trình nằm chữa bệnh, Bác có đặc biệt là: cơn đau tim đến dồn dập, liên tiếp nhưng Bác không rên, Bác nằm yên và nhắm mắt. Khi anh Ba (tức đồng chí Lê Duẩn, anh Văn (tức đồng chí Võ nguyên Giáp), vào thăm thì Bác cố ra vẻ bình tĩnh và bao giờ cũng chỉ hỏi một câu: "Hôm nay miền Nam đánh thắng ở đâu?". Cụ Tôn Đức Thắng, anh Nguyễn Lương Bằng vào thăm, Bác đều hỏi đời sống đồng bào, đồng chí miền Nam như thế nào. Bác hỏi về việc phòng chống máy bay bắn phá ở các địa phương, các tỉnh miền Bắc như thế nào? Hỏi về sơ tán ra làm sao. Bác dặn: "Không được chủ quan, phải chú ý tới cụ già và các cháu nhỏ". Ngày qua ngày, cơn đau tim mỗi lúc đến một nhiều nhưng Bác vẫn nói với chúng tôi: "Các chú cứ yên tâm, hôm nay Bác khỏe hơn hôm qua. Bác sẽ cố gắng uống thuốc để cho khỏe lại".
Thời điểm ấy, cũng là thời điểm nước sông Hồng lên to ở mức báo động số 3. Các bác sĩ có nói với tôi là nên đề nghị Bác sơ tán lên vùng cao Hòa Bình, tiện cho việc điều trị. Chờ Bác tỉnh giấc, tôi có nói với Bác như vậy, nhưng rồi tôi lại thấy Bác nhắm mắt. Tưởng Người mệt, tôi không nói gì thêm, định chờ Bác tỉnh thì nói. Đúng lúc ấy, anh Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) vào và hỏi: "Sức khỏe Bác hôm nay có khá hơn không?". Bác liền nói: "Này chú Tô, chú Kỳ đề nghị sơ tán lên chỗ an toàn, Bác không bỏ dân đâu! Các chú phải cố gắng giữ cho đê điều tốt". Thì ra, Bác không trả lời vì Bác biết rằng: có sơ tán thì mọi việc cũng không giải quyết được gì. Cái chính là phải làm sao cho dân không bị nạn.
Giọng kể cụ Vũ Kỳ như mỗi lúc lại chậm lại, nghẹn ngào và trong đôi mắt vẫn còn sáng kia trào ra những giọt lệ nhớ thương Người: "Mùa thu năm 1969, đất nước Việt Nam vô cùng buồn. Đúng ngày lễ kỷ niệm Quốc khánh mùng 2-9, Bác đã ra đi. Thật linh thiêng! Chúng ta càng nhớ Bác Hồ, càng phải cố gắng làm theo lời Bác Hồ dặn, càng phải cố gắng làm theo cách Bác Hồ làm".


Báo Thể thao Việt Nam, số 103, ngày 31/8/2002


Nguồn: violet.vn

Không có nhận xét nào: