-
Mình là con nhà gia giáo, tại sao con lại hành động một cách nóng nảy
như thế? Cha mẹ nó ỷ quyền ỷ thế mất dạy, làm sao nó có dạy được? Con có
đủ sức đánh hết tụi nó không? Con nên cố gắng học hành và dùng sức lực
tuổi trẻ của mình làm những việc lớn hơn!
Anh
Thành rất cảm động trước những lời chỉ dạy của thầy. Anh cúi đầu nhận
lỗi. Bỗng dưng trong đầu anh sáng lên một ý nghĩ: Phải chăng thầy Hoàng
Thông là một đồng chí của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh? Anh
ngước nhìn thầy, hai ánh mắt sáng như hai luồng điện:
- Thưa Thầy, thầy thấy con có thể làm được gì, xin thầy hãy tin con!
Thầy
Hoàng Thông nhìn kỹ cậu thanh niên tuấn tú đứng trước mặt, lòng thầy
lâng lâng một niềm vui sướng. Hôm ấy anh lãnh trách nhiệm liên lạc với
một số người yêu nước.
Lúc
này ngọn gió duy tân đang bùng lên ở Kinh đô. Ngay cả cái tên của ông
vua trẻ cũng được đem ra bình luận. Những điều vua Thành Thái không thực
hiện được, ông đặt cả niềm tin vào đứa con. Mặt dù ông bị buộc phải tốn
vị, nhưng Triều đình còn lại cũng phải nể ông, nhận đặt tên Duy Tân cho
người con kế vị ông. Một phong trào diễn thuyết kêu gọi Duy Tân lan
tràn khắp nơi. Hai người nổi tiếng nhất là Lê Đình Mộng (tức Ấm Mộng) và
Trần Trinh Linh. Anh Thành cũng tập diễn thuyết ngay trên sân trường
Quốc học.
Những
lúc vắng thầy hay những buổi đi học sớm, Thành hay leo lên bàn đứng tập
nói chuyện. Anh nói về tình trạng lạc hậu của người Việt Nam; sở dĩ mất
nước là vì sự lạc hậu ấy. Anh nói về sự bất lực của Nam triều, nói về
tình hình sưu cao thuế nặng...Và cuối cùng bao giờ anh cũng sang sảng
kêu gọi “Thanh niên và những người có ăn học, phải làm cái gì cho dân,
cho nước!”
Có
lần nghe tiếng anh nói, học trò kéo đến vây quanh xem. Một lúc có cậu
sợ liên lụy lẩn tránh đi chỗ khác, bọn con ông cháu cha nghe nói động
đến cha ông chúng, chúng đi báo ngay với hiệu trưởng Chouquet. Thấy hiệu
trưởng đến, Thành nhảy xuống đi chỗ khác; khi hiệu trưởng đi xa, anh
lại nhảy lên tiếp tục nói. Viên hiệu trưởng tức giận gọi anh và các thầy
giáo của anh đến quở trách, anh đã xin trả lời:
-
Những điều con nói có thấm vào đâu so với thư của cụ Phan Châu Trinh
gởi cho ngài Toàn quyền Beau, so với những buổi diễn thuyết của ông Ấm
Mộng, ông Trần Trinh Linh...sao các thầy không cấm những người ấy để cho
học trò khỏi bắt chước?
Hiệu
trưởng Chouquet giận đỏ mặt. Y cho Thành cứng đầu, lý sự, định đứng dạy
bộp tai, nhưng vì trước mặt có các thầy giáo của Thành nên không dám
thô bạo. Y nói:
-
Những người bất trị ấy trước sau rồi cũng bị nghiêm trị. Mi là thằng
học sinh ăn học bổng của chính quyền Bảo hộ, tại sao mi dám nói những
lời chống chính phủ Bảo hộ trước mặt các thầy giáo?
Nói
xong y đứng dậy, không thèm nghe anh Thành nói thêm một lời nào nữa. Y
đẩy anh Thành ra khỏi phòng, đóng cửa lại rồi hạch sách các ông giáo một
lúc. Cuối cùng y đe:
-
Tôi sẽ báo cho sở Liêm phóng biết hạnh kiểm của thằng học trò ngỗ
nghịch đó và cả anh hắn. Nếu các ông không dạy được hắn, tôi sẽ đuổi cả
các ông luôn. Tôi cũng sẽ gọi bố chúng đến đây. Nếu bố chúng không dạy
được, tôi sẽ đề nghị Nam triều khiển trách tên Thừa phái không biết dạy
con ấy.
Sau
cái hôm bị cảnh cáo, Thành thường hay bỏ học. Vào những ngày có phiên
chợ, anh cùng bạn bè xách một cái giỏ trong ấy đựng một cái lược và một
cái kéo, ra đứng ở các ngã ba có nhiều người qua lại. Anh tham gia phong
trào Duy Tân, cắt bỏ búi tó. Hễ thấy ai có đầu tóc búi tó thì anh giơ
kéo lên, miệng gọi người ấy đến đọc cho nghe bài vè:
“Húi hề... Húi hề!
Bỏ cái ngu nầy!
Bỏ cái dại nầy!
Húi hề húi hề!
Ngày nay ta cúp
Ngày mai ta cạo!
Húi hề húi hề!
Bỏ cái ngu nầy!
Bỏ cái dại nầy!
Húi hề...Húi hề!
Phong trào Duy Tân cho rằng cái búi tó là biểu hiện của sự lạc hậu, ngu dốt. Muốn Duy Tân phải đoạn tuyệt với cái cũ ấy đi.
Bạn bè thấy anh lớn tuổi, đứng đắn, có uy tín với thầy với bạn, rất nể vì anh. Nhưng ai cũng sợ, ít người dám “đi” theo anh.
Nguồn http://bachovoihue.violet.vn
Người học sinh khác thường
Nguồn http://hachovoihue.vilolet.vn
Ngôi nhà thời thơ ấu của Bác Hồ
Người học sinh khác thường
Anh
Thành bước vào trường Quốc học sau sự kiện vua Thành Thái tốn vị
(abdiqué), vua Duy Tân bị áp đặt lên ngôi. Cái mà làm cho lớp trẻ lưu ý
nhất là ông vua Duy Tân chưa đầy tám tuổi này đã có những biểu hiện bất
khuất trước chính quyền thực dân Pháp. Anh em học trò rỉ tai nhau câu
nhận xét của một nhà báo Pháp về ông vua trẻ này: “Un jour de trône a
changé complètement le visage d’un enfant à huit ans”. (Một ngày ngồi
trên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn khuôn mặt của một cậu bé tám tuổi).
Anh
Thành tiếp tục rèn luyện môn Pháp văn trên ghế nhà trường Quốc học. Lúc
mới vào trường anh rất buồn. Dần dần anh cũng tìm thấy những niềm vui.
Bên dưới cái bộ mặt buồn bã của một ngôi trường trong tay thực dân còn
có một trái tim nóng bỏng vì tình dân nghĩa nước. Anh được thầy Hoàng
Thông dạy chữ Hán rất thương. Thầy giao cho anh lên viết bài học trên
bảng đen và đọc trước cho học trò đọc theo. Nhiều hôm thầy bận việc đến
trễ, thầy giao cho anh Thành coi lớp. Sau giờ học, anh hay lại nhà thầy ở
trong trường, xin thầy đọc những Tân Thơ, Tân Sách do thầy biên soạn
hay thầy đã sao chép được. Sách do thầy viết cuốn Tự Trị Thượng Sách;
sách do người Việt Nam soạn có các cuốn: Thiên Hạ Đại Thế Luận, Thời Vụ
Sách của Nguyễn Lộ Trạch, Đinh Hoàn Chí Lược của Phạm Phú Thứ; những
sách báo nói về tình hình Trung Quốc mà gần giống với Việt Nam có Ẩm
Băng, Tự Do Thư, Trung Quốc Hồn; những sách của Tây Phương do người
Trung Quốc dịch lại có Dân Ước của Lư Thoa (J.J. Rousseau), Tiến Hóa
Luận của Tư Tân Tắc (Spencer), Dân Quyền Thiên của Mạnh Đức Tư Cưu
(Montesquieu).
Người
thầy thứ hai mà anh cũng hết sức kính trọng là thầy Lê Văn Miến. Thầy
Miến là người Diễn Châu, người đồng tỉnh với anh. Thầy Miến có một cung
cách đặc biệt, trước kia thầy được cử sang học ở trường hành chánh thuộc
địa cùng với Thân Trọng Huề và Hoàng Trọng Phu. Khi tốt nghiệp, hai ông
kia về làm quan to, còn thầy Miến thì xin ở lại học trường Cao Đẳng Mỹ
Thuật Pháp (Ecole des Beaux-Arts de Paris). Học xong, thầy về Hà Nội làm
cho nhà in Shneide. Tổng đốc An Tịnh là Đào Tấn biết thầy giỏi, đã ra
đưa thầy về Vinh rồi đưa vào Huế làm hành tấu ở bộ Công với Đào tiên
sinh. Trong một vụ vỡ lở có dính dáng đến việc vẽ các kiểu súng trường
cho vua Thành Thái đúc chuẩn bị đánh Pháp, thầy bị đưa ra Vinh mở trường
Pháp – Việt, rồi đến năm 1907 thì đưa thầy về dạy vẽ ở trường Quốc học.
Bọn Pháp biết thầy Miến có tư tưởng chống Pháp nhưng chúng không dám
hãm hại thầy vì lẽ thầy rất có uy tín với dư luận Pháp. Sau những giờ
dạy vẽ, thầy Miến thường kể chuyện thầy đã đi du lịch nhiều nước trên
thế giới. Thầy thường kể với học sinh:
-
Người Pháp ở chính quốc khác với người Pháp ở đây. Ở thủ đô Ba Lê cũng
có rất nhiều người nghèo. Chiều chiều, những người già không có nơi
nương tựa phải chống gậy đi học phố moi móc trong các thùng rác xem thử
có còn gì ăn được thì lấy ra ăn; đêm đêm ở vườn Luýt-xăm-bua thơ mộng,
nhiều cô gái nghèo phải bán thân nuôi miệng. Người dân Pháp, từ người
thứ dân cho đến vị Hàn lâm, thấy những người Việt Nam mất tư cách thì họ
tỏ ra khinh bỉ, nhưng ngược lại thấy những người có đạo đức, biết tự
trọng, có tài, họ rất kính phục, ít có chuyện phân biệt vì chủng tộc nòi
giống (race). Đặc biệt, ở Ba Lê có rất nhiều viện bảo tàng, nhiều thư
viện tàng trữ những hiện vật xưa, sách cổ quí giá. Sách về yêu nước và
cách mạng thế giới có nhiều, ai muốn đọc cũng được, không hạn chế và
không ngăn cấm.
Nghe
những chuyện ấy, anh Thành rất náo nức, anh càng tự quyết tâm cao hơn
để sớm có đủ trình độ Pháp văn tiếp xúc với những thứ quý giá ấy. Một
hôm trả Luận văn, thầy Queignec cầm bài luận của anh Thành đưa ra giữa
lớp nói lớn:
- Thành a
traité le sujet de rédaction en vers, c’est un élève intelligent et
vraiement distingué (Trò Thành đã làm đề luận này bằng thơ, đây là một
học sinh thông minh và xuất chúng).Nguồn http://hachovoihue.vilolet.vn
Ngôi nhà thời thơ ấu của Bác Hồ
Ngôi
nhà tranh ấy gồm ba gian nho nhỏ, xinh xinh, phần cuối được nối thêm
một khoảng và cho nép vào phía sau, tiếng địa phương gọi là cái cổ hôn,
làm nơi nấu nướng nhằm cho khói và bồ hóng đỡ xông vào các gian kia.
Đó
là ngôi nhà do cụ Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép, tức ông bà ngoại
cậu Cung dựng cho bố mẹ của cậu là Nguyễn Sinh Sắc, Hoàng Thị Loan ngay
trong vườn nhà mình khi họ kết thành gia thất.
Cũng
như cách bố trí thông thường ở trong vùng, ngôi nhà của ông Sắc, gian
ngoài thờ ông thần bếp và là nơi đặt bàn học, còn nữa kê bộ phản gỗ để
ông và hai cậu con trai nằm. Gian giữa rộng nhất, phía trong đặt bàn thờ
cúng gia tiên.
Ngôi nhà thời thơ ấu của Bác Hồ
Còn
nữa đặt bộ tràng kỷ bằng tre để ông đón tiếp người thân, bạn bè. Gian
nhà trong, phía sau là buồng, chỗ nghỉ của bà Loan cũng là nơi bà sinh
nở và chăm nuôi các con khi họ mới lọt lòng.
Phía
ngoài của gian đó đặt chiếc chõng tre, nơi các dì, các thím, bà con
trong xóm thường đến thân tình trò chuyện. Phần còn lại là nơi đến bận
cơm thì có chiếc mươn ngã ra làm bàn ăn. Xong rồi, mươn được ngoắc lên
vách nhà.
Thật
khó mà tìm thấy một thứ vật liệu nào khác lạ so với các ngôi nhà thanh
bạch khác ở trong thôn. Những cây cột, đường xà, chiếc kèo đều bằng các
thứ gỗ thị, bời lời, xoan đâu, cũng như đòn dông và các đòn tay làm bằng
tre là đều lấy từ trong vườn.
Chúng
được chặt sẵn, ngâm nước lâu ngày để khỏi bị mọt. Chỉ có rui, mè trên
mái và vách chắn, liếp cửa là đều bằng nứa nên phải mua. Còn tranh lợp
thì kết bằng lá mía bóc của ruộng nhà có từ ngoài bãi. Sức tự cấp tự túc
ở dây cũng đến mức được tận dụng triệt để như của mọi gia đình nghèo
khó khác ở trong vùng.
Và,
tất cả đều được ông bà cụ Đường lựa chọn, trau chuốt thật kỹ càng. Cụ
Kép thường dặn con gái là phải thường xuyên chăm sóc quét dọn để giun dế
và kiến mối khỏi làm sủi nền và hỏng vách. Họ nhà mối chúng dễ từ mặt
đất mà xông lên đến tận nóc nhà.
Trong vườn, ngoài nhà ông Sắc, còn có nhà ông bà ngoại và nhà thờ họ Hoàng mà cụ Đường là tộc trưởng.
Cụ
Đường đặt hướng nhà cho gia đình của con gái sau khi đã hỏi ý kiến các
vị cao tuổi và có nhiều trải nghiệm ở trong họ, trong thôn. Nhà ngoảnh
về hướng Đông - Nam, như vậy dễ đón được bình minh lên.
Chiều
về bóng mát từ hàng hiên sớm trải ra sân và gió nồm dễ dàng thổi tới.
Nắng gió, sương móc là những của cải vô vàn do thiên nhiên ban tặng, chỉ
sợ con người không đủ sức và không còn thời gian mà tận hưởng.
Cụ
Đường thường nói với con cháu trong nhà như vậy. Trong ngôi nhà ấy, năm
1884, bà Loan sinh con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh, năm 1888 sinh
Nguyễn Sinh Khiêm tức Tất Đạt và năm 1890 sinh Nguyễn Sinh Cung, tức Tất
Thành sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng ta.
Khu
vườn cụ Đường rộng gần 5 sào (Trung Bộ). Nhà thờ, nhà lớn của hai cụ và
cả nhà riêng của vợ chồng ông Sắc, tất cả chỉ choán hết một phần nhỏ
diện tích mà thôi.
Toàn
khu vườn xung quanh là lũy tre, xen vào có các cây cổ thụ, là nơi cho
nhiều loại chim chóc về làm tổ theo mùa. Và vườn vẫn dư dả đất đai để
trồng khoai lúa, rau màu.
Là
gia đình một nhà nho, ngoài các thứ cây ăn quả thì đất dành cho các
loại thảo lan, cúc, mẫu đơn, nhài, phật thủ... cũng được dành một diện
tích thích đáng.
Vườn
nhà ông bà ngoại là phần thiên nhiên quan trọng trong thế giới tuổi thơ
của cậu Nguyễn Sinh Cung. Những buổi, mẹ từ chợ về, không còn tiền để
mua quà. Thay vào đó có cây táo quả đã đến thì đọng mật. Bà ngoại đưa
tay ngoèo một cành, hái lấy những quả mập căng mà phân phát cho chị em
Thanh.
Bé Cung được lớn dần lên trong cảnh nhà ấm cúng như vậy.
Một buổi chiều, sau khi tạnh cơn giông, cậu hỏi một học trò của ông ngoại:
- Sấm từ đâu mà có?
Người học trò đáp:
- Sấm sinh ra tự trên trời.
Cậu hỏi tiếp:
- Ngoài sấm, trên trời còn có những gì?
Người thanh niên chỉ cười vì không biết đáp như thế nào!
Lên bốn tuổi, bé Cung đòi học chữ và mẹ cũng là cô giáo.
Buổi
đầu, mẹ đưa tay vạch lên giấy: chữ "Nhất" 1 nét, chữ "Nhị" 2 nét, chữ
"Tam" 3 nét. Cậu hỏi, thế có phải chữ "Tứ" gồm 4 nét? Bà mẹ cười trước
câu hỏi ngộ nghĩnh mà có lý của con trai và đáp:
- Không phải, đến chữ "Tam" là thôi cách viết như vậy; và đó là cách viết đơn, còn viết kép thì các chữ kia đều có nhiều nét.
Mẹ
vẫn tiếp tục giữ vai trò là một cô giáo của Cung, một cậu bé luôn đặt
ra nhiều câu hỏi mà tiếng địa phương cho là "trái khoáy" nhưng sẽ ở vào
một nơi khác.
Năm
1893, ông ngoại qua đời. Năm 1894, bố của Cung thi đỗ Cử nhân. Năm
1895, Cung cùng anh trai theo bố mẹ vào Huế và cậu sống lần đầu tại đó
cho đến tuổi lên mười thì mẹ mất.
Đầu
năm 1901, anh em cậu theo bố về lại làng Chùa. Cũng năm đó, bố của cậu
thi đỗ Phó bảng rồi gia đình cậu về sống tại làng Sen, quê nội. Mùa thu
năm 1905, cậu theo bố vào Kinh học tập và năm 1911 thì ra đi tìm đường
cứu nước.
Sau
30 năm bôn ba khắp các đại lục tìm đường cứu dân cứu nước để năm 1941
thì về lại Tổ quốc, chuẩn bị để tiến hành Cách mạng Tháng 8 thành công
(1945), lại 16 năm tiếp, là thời gian làm Chủ tịch nước, bận bịu với
công cuộc kháng chiến, kiến quốc, đến cuối năm 1961, Người mới có dịp về
thăm lại ngôi nhà này và đó cũng là lần cuối cùng Người trở về ấn những
dấu chân lên mảnh vườn thơ ấu của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thời niên thiếu
Thân
phụ là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862, quê ở làng Kim Liên (thường gọi
là làng Sen), cùng thuộc xã Chung Cự, cách Hoàng Trù 2km (nay thuộc xã
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Xuất thân từ gia đình nông dân,
sớm mồ côi cha, mẹ, từ nhỏ đã chịu khó lao động và ham học. Vì vậy, được
cụ Hoàng Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi. Ông vừa
lao động vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng thành ông thành hôn với người
con gái đầu của cụ.
Thân
mẫu là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ cần mẫn, đảm
đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng chăm lo cho
chồng con ăn học.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.
Chị là Nguyễn Thị Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884.
Anh là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888.
Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian, lợp tranh, trên đất vườn của ông bà ngoại tại Hoàng Trù.
Năm
1890 - 1895, Nguyễn Sinh Cung sống ở làng Hoàng Trù trong tình thương
yêu và chăm sóc của bố mẹ và ông bà ngoại. Ông ngoại là Hoàng Đường, dạy
chữ Hán ngay tại nhà cho một số trẻ em trong làng. Bà ngoại là Nguyễn
Thị Kép, làm ruộng để nuôi gia đình.
Ngày 22 tháng 5 năm 1893, Nguyễn Sinh Cung chịu tang ông ngoại.
Khoảng
tháng 6 năm 1894, Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: Cha đậu cử nhân,
khoa thi giáp Ngọ năm thành Thái thứ 6 tại trường thi Nghệ An.
Khoảng
gần cuối năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha mẹ vào Huế. Thời
kỳ này từ Nghệ An đi Huế chưa có đường xe lửa và ô tô. Mọi người phải đi
bộ, trẻ em thường ngồi trong quang gánh của người lớn. Tới Huế, lúc đầu
gia đình Nguyễn Sinh Cung phải ở nhờ những người quen, sau ở tạm trong
một gian trại lính gần Viện đô sát (ngày nay là nhà số 114, đường Mai
Thúc Loan).
Gần
cuối năm 1898, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha đến ở nhà ông Nguyễn
Sĩ Khuyến, làng Dương Nổ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Lúc này, ông Nguyễn Sinh Sắc mở lớp dạy chữ Hán cho một số học sinh
trong làng, Nguyễn Sinh Cung cũng theo học.
Ngày
10 tháng 2 năm 1901, Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong tuổi thiếu
niên: bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu lâm bệnh qua đời tại Huế. Bà đã được
những người láng giềng thân thiết lo việc mai táng, vì lúc này ông
Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê nhà.
Sau
khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Xin (em trai Nguyễn Sinh
Cung, sinh vào cuối năm 1900 tại Huế; sau khi bà Hoàng Thị Loan mất,
Nguyễn Sinh Xin được ông Nguyễn Sinh Sắc đưa về Hoàng Trù gửi bà ngoại
trông nom, nhưng yếu sức nên mấy tháng sau thì chết) về quê.
Tại
quê, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hoàng Phan Quỳnh, lớp học mở
tại xóm Vang, làng Hữu Biệt, cách Hoàng Trù 3km (nay thuộc xã Nam
Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Tháng
5 năm 1901, một tin vui đến với gia đình Nguyễn Sinh Cung và dân làng:
Ông Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) đậu Phó bảng khoa thi Hội, Tân
Sửu, năm Thành Thái thứ 13.
Dân
trong xã ai cũng biết rằng, nhờ công lao cụ Hoàng Đường cùng gia đình
bên vợ ở Làng Trùa, ông Sắc mới thành đạt. Song theo tập tục địa phương
và ý nguyện bà con họ Nguyễn Sinh, ông Sắc đã vinh quy tại Làng Sen quê
nội (khoảng tháng 9 năm 1901). Trước khi ông Sắc được đón về, làng Kim
Liên đã cấp đất công, xuất quỹ làm cho một ngôi nhà (đó là ngôi nhà và
khoản vườn hiện nay còn được bảo tồn ở Kim Liên).
Nhân
dịp này, ông Nguyễn Sinh Sắc làm lễ "Vào làng" cho hai con trai, với
tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Cũng
như nhiều vùng khác ở nông thôn Nghệ An, Làng Sen vốn đã nghèo lại càng
nghèo thêm từ khi mất nước. Tại đây, ngoài nghề làm ruộng, bà con nông
dân còn làm nhiều nghề khác như dệt vải, đan lát hoặc nghề sơn tràng,
kiếm củi, đốt than...
Xưa
kia, vùng này gọi là Trại Sen với những địa danh toàn sen: nào Đồng Sen
Cạn, Đồng Sen Sâu, Giếng Sen, Đầm Sen; nào Vực Sen, Bàu Sen, Chợ Sen,
Cồn Sen...
Sen
góp phần tạo nên cảnh trí thiên nhiên đặc sắc ở đây nên mới gọi là Làng
Sen. Nhân dân Làng Sen tự hào vì làng mình đẹp, lại có nhiều nho sĩ
thường hay lui tới đàm đạo văn chương, thời thế.
Với
tâm hồn thơ mộng, rất yêu thiên nhiên, Nguyễn Tất Thành tự hào với cảnh
đẹp của làng quê mình. Nhưng điều đáng tự hào hơn cả là làng Kim Liên
có nhiều di tích lịch sử và anh hùng hào kiệt. Ngay trước ngõ nhà cậu,
chếch về phía phải là Giếng Cốc, nơi bọn thực dân Pháp đã ra lệnh tát
cạn nước để tìm vũ khí của "chung nghĩa binh", khi chúng đã đàn áp được
cuộc khởi nghĩa Vương Thúc Mậu (năm 1886). Hình ảnh người anh hùng của
quê hương, người bạn dạy học của ông ngoại cậu đã
hy sinh ngay tại làng để bảo toàn khí tiết đã từng gây xúc động mạnh
trong lòng Nguyễn Tất Thành.
Sau
tháng 9 năm 1901, một vinh dự lớn cho Nguyễn Tất Thành là được cha gửi
sang học chữ Hán với thầy Vương Thúc Quý và thầy Trần Thân ở ngay trong
làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý vốn là nhà nho,
giàu lòng yêu nước cho nên Nguyễn Tất Thành và bạn học đều chịu ảnh
hưởng chí hướng của thầy. Nguyễn Tất Thành là một học trò nhanh trí và
có trí nhớ tốt, được thầy yêu mến. Học với thầy Vương Thúc Quý, Tất
Thành cảm thấy thoải mái, dễ hiểu vì thầy thức thời, không nệ cổ, không
bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối "tầm chương trích cú". Là tấm gương
sáng cho học trò noi theo, thầy gợi cho Nguyễn Tất Thành những vấn đề mà
trong bước trưởng thành, anh còn phải tìm hiểu cho đến nơi đến chốn.
Khoảng năm 1901-1902, Nguyễn Tất Thành bước
đầu tiếp thu tư tưởng yêu nước của các bậc cha chú thông qua mối quan
hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng. Phan Bội Châu, trong tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu, kể lại rằng: Nguyễn Tất Thành thường nghe cụ ngâm hai câu thơ và sau này anh vẫn nhắc lại:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
Nghĩa là:
Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương
Mùa
xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến ở xã Võ Liệt, huyện Thanh
Chương, Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Thời gian này, ông Nguyễn Sinh
Sắc (thân phụ) dạy tại nhà ông Nguyễn Thế Văn.
Ngày
13 tháng 4 năm 1904, Nguyễn Tất Thành chịu tang bà ngoại. Đây là cái
tang lớn của cả gia đình. Sở dĩ ông Nguyễn Sinh Sắc học hành và đỗ đạt
được chủ yếu là nhờ sự bù trì, giúp đỡ của gia đình phía vợ. Bà ngoại
cũng đã giành cho Thành và những người cháu sớm mồ côi mẹ lòng yêu
thương sâu sắc. Bà mất, Tất Thành đau xót, nghẹn ngào. Hình ảnh ông
ngoại, mẹ và em Xin lại hiện lên rõ nét trong trí nhớ của Tất Thành. Thế
là trong tuổi thiếu niên, Tất Thành phải chịu bốn cái tang của gia
đình. Nhìn lên bàn thờ bà ngoại, Tất Thành xót xa, nhớ tiếc với bao kỷ
niệm thân thương của hai bà cháu quanh góc sân, mảnh vườn.
Sau
kỳ đại tang đó, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh).
Thời gian này, ông Nguyễn Sinh Sắc dạy học ở nhà ông Nguyễn Bá Uy.
Ngoài
giờ học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh
thăm các nhân sĩ yêu nước (đến làng Đông Thái - quê hương của Phan Đình
Phùng, làng Trung Lễ - quê hương của của Lê Ninh, v.v...) hoặc thăm các
di tích lịch sử như thành Lục Niên, miếu thờ La Sơn phu tử, v.v...
Tháng
7 năm 1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình trong dịp ông Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu ở vùng đó.
Theo
cha đi khắp đó đây, tầm mắt Tất Thành được mở rộng, quả là "đi một đoạn
đàng, học một sàng khôn". Anh thấy đâu đâu cảnh nghèo đó cũng phơi bày
ra trước mắt. Nhan nhản người ăn xin ở khắp mọi nơi. Hầu như làng quê
nào cũng chỉ nổi lên vài ba ngôi nhà đồ sộ bên cạnh hàng trăm túp lều xơ
xác, tiêu điều. Mùa đông giá lạnh càng nhiều cảnh thê thảm hơn. Không
đủ manh áo che thân, nhiều người phải quấn tơi, chiếu hoặc bao tải rách.
Bọn đế quốc và địa chủ phong kiến đang hút tủy, rút xương dân chúng
bằng hàng trăm thứ thuế nặng nề và phu đài, tạp dịch. Từ người lớn đến
trẻ con ai ai cũng sợ "ông Tây". Anh Thành cảm thấy nỗi nhục mất nước
hằn rõ trên gương mặt mỗi người Việt Nam.
Tháng
9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ xin cho
theo học lớp dự bị Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố Vinh, cách
Kim Liên khoảng 14 km.
Hai
anh em trọ ở một gia đình nghèo mạn Cầu Rầm (Vinh) và thường thường
chiều thứ bảy đi bộ về thăm nhà, sáng thứ hai lại xuống Vinh.
Chính tại Trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI.
Cái
nôi quê hương giàu truyền thống bất khuất với bản sắc riêng của xứ Nghệ
đã tạo cho Nguyễn Tất Thành sớm có lòng yêu nước, thương dân, căm thù
giặc và ý chí "Làm trai cho đáng nên trai". Những tấm gương của các thầy
giáo và những hoạt động sôi nổi của các bậc cha chú như Phan Bội
Châu... đã kích thích cao độ chí làm trai của anh. Thái độ bất hợp tác,
ngầm chống đối thực dân, phong kiến và nhận thức được thời cuộc, lòng
thương dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành
nhân cách của anh.
Nguồn http://www.baobinhdinh.com.vn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét